Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH NGHỆ AN

BN ÁN 19/2022/HSST NGÀY 18/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 18/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2022/TLST-HS ngày  25 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo: Vi Văn T, tên gọi khác: Không; Sinh  năm: 2002 tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản CB, xã CT, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 6/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vi Văn L (Đã chết) và bà Vi Thị M; Vợ - Con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Chưa có; Nhân thân: Năm 2019, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong vào  ngày 13/5/2020; Bị tạm giữ từ ngày 21/12/2021 và tạm giam từ ngày 30/12/2021  cho đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang. Trợ giúp viên pháp lý. Chi nhánh số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị hại: Anh Lang Minh Q. Sinh năm 1981. Trú tại: Bản Đ2, xã CP, huyện  Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ ngày 20/12/2021, Vi Văn T đến chơi tại nhà ông Lang Văn H (tại bản Đ2, xã CP) thì thấy phía dưới nhà sàn anh Lang Minh Q (ngay sát nhà ông H) có một chiếc máy cưa xăng. T đã nảy sinh ý định trộm chiếc máy cưa xăng bán lấy tiền tiêu xài cá nhân nhưng do đang bận việc nên chưa thực hiện ngay mà đi về nhà bà ngoại (Bà Vi Thị H) trú cùng bản. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, T quay lại nhà anh Q, thấy không có người trông coi nên T đã đi vào nhà anh Q lấy trộm chiếc máy cưa đem đi cất giấu tại   khu vực ruộng gần nhà anh Q rồi quay về nhà bà H ăn cơm. Khoảng 19 giờ cùng ngày, T quay lại nơi cất giấu lấy chiếc máy cưa đem đi tìm nơi tiêu thụ. T cầm chiếc máy cưa đi đến khu vực bản B, xã CP thì thấy có một cửa hàng thu mua sắt vụn. Tại đây, qua trao đổi với chủ cửa hàng (Anh Cao Văn Th) thì T nói là máy cưa của bản thân và cần tiền nên bán gấp. Sau khi thỏa thuận thì anh Th đã mua chiếc máy cưa và trả cho T số tiền 400.000đ. Đến ngày 21/12/2021, sau khi biết việc anh Q bị mất chiếc máy cưa đã bị phát giác nên T đã đến đầu thú tại Công an xã CP và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Anh Lang Minh Q sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản thì đã có đơn trình báo với Công an xã CP. Quá trình điều tra, anh Cao Văn Th đã giao nộp lại chiếc máy cưa đã mua của Vi Văn T và gia đình T đã hoàn trả cho anh Th số tiền  400.000đ. Ngày 27/01/2022, cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu đã trả lại chiếc máy cưa cho anh Lang Minh Q. Nay, anh Q và anh Th không yêu cầu bị cáo  phải bồi thường gì thêm.

Tại bản Kết luận định giá số 33/KL-HĐĐGTS ngày 27/12/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Quỳ Châu kết luận: 01 chiếc máy cưa có giá trị thành tiền tại thời điểm bị trộm cắp là 3.200.000đ  (Ba triệu, hai trăm nghìn đồng).

Cáo trạng số 21/CT-VKS-HS ngày 24/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân  huyện Quỳ Châu đã quyết định truy tố Vi Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKS thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản  1 - khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù. Không  áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu  án phí HSST theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí với tội danh và điều luật như viện dẫn của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị áp dụng thêm Điều 54 BLHS và dề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 04 đến 06 tháng tù.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung truy tố của Cáo trạng và không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Bị cáo đề  nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện  Quỳ Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy  định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm  nay, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy  tố đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại: Tại phiên tòa hôm nay, anh Lang Minh Q vắng mặt. Tuy nhiên, quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai của người này và được công bố tại phiên tòa. Ngoài ra, anh Lang Minh Q không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Xét thấy, việc anh Quảng vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Căn cứ Điều 292 BLTTHS Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Lang Minh Q.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Vào ngày 20/12/2021, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép chiếc máy cưa xăng tại nhà của anh Lang Minh Q. Sau khi trộm cắp được thì bị cáo đã bán cho anh Cao Văn Th lấy số tiền 400.000đ để tiêu xài cá nhân. Ngày 21/12/2021, sau khi biết sự việc trộm cắp đã bị phát giác thì bị cáo đã đầu thú tại Công an xã CP và khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Thấy rằng lời khai của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép 01 chiếc máy cưa xăng có trị giá 3.200.000đ (Ba triệu, hai trăm nghìn đồng). Như vậy, bị cáo Vi Văn T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS đúng như nội dung truy tố của Cáo trạng.

[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng tài sản của người khác là bất khả xâm phạm. Vì bản thân lười lao động, không có nghề nghiệp và thu nhập nên bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác nhằm phục vụ cho mục đích chơi bời, tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất an ninh trật tự trên địa bàn và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Vào năm 2019, khi bị cáo chưa đủ 18 tuổi đã bị xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171  BLHS (Tội phạm nghiêm trọng). Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 107 BLHS thì bị cáo không bị coi là có án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà nay lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm và lên cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một  thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, xét cho bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ biết ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã ra đầu  thú tại cơ quan có thẩm quyền. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Đối với đề xuất của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51  BLHS đối với việc gia đình bị cáo hoàn trả lại tiền cho anh Cao Văn Th. Xét thấy, sau khi hành vi phạm tội của bản thân bị cơ quan chức năng phát hiện thì gia đình bị cáo đã hoàn trả cho anh Th số tiền khi chuyển nhượng chiếc máy cưa xăng do  trộm cắp mà có. Đây không phải là việc bồi thường hay khắc phục hậu quả của   việc phạm tội. Vì vậy, không có căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 và Điều 54 BLHS cho bị cáo.

[2.3] Hình phạt bổ sung: Bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn và không có  tài sản. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. [2.4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lang Minh Q đã được nhận lại tài sản bị  chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Vì vậy nên miễn xét.

[3] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51; Điều 38  BLHS. Xử phạt Vi Văn T 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/12/2021.

- Căn cứ vào điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Buộc Vi Văn T phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lang Minh Q được quyền kháng cáo trong  thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HSST

Số hiệu:19/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;