TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13/3/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/TLST - HS ngày 05/02/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10 /2024/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo:
1.Họ và tên : Nguyễn ĐT, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 07/3/1986 tại huyện Bát Xát, tỉnh L; Nơi cư trú: Tổ 07, thị trấn Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh L; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp trước khi phạm tội: Lao động tự do; Tiền án: Không; Bố đẻ: Nguyễn Cường A; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T; Vợ: Nguyễn Thị T. (Đã ly hôn năm 2023); Bị cáo có 01 con, sinh năm 2018; Tiền án: Không;
Nhân thân:
+ Tại Bản án số 142/2010/HSST ngày 09/11/2010 của Toà án nhân dân thành phố L quyết định xử phạt Nguyễn ĐT 07 (Bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”, buộc Nguyễn ĐT phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Nguyễn ĐT đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm ngày 22/01/2011, hiện đã được xoá án tích.
+ Tại Quyết định số 19 ngày 13/6/2002 của Công an huyện Bát Xát, tỉnh L quyết định xử phạt Nguyễn ĐT số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn) về hành vi trộm cắp tài sản. Đối với tiền sự này, Nguyễn ĐT đã chấp hành xong việc nộp phạt ngày 13/6/2002 và hiện tiền sự này đã được xoá.
Tiền sự: 01 tiền sự + Tại Quyết định số 19 ngày 10/3/2023 của Toà án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn ĐT, thời hạn 24 (Hai mươi tư) tháng, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại Nguyễn ĐT chưa thi hành quyết định trên nên tiền sự này hiện chưa được xoá.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/12/2023. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L - Có mặt
2. Họ và tên: Lưu Đình T; Tên gọi khác: Lưu Tuấn T, Lưu Văn T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 14/5/1985 tại thành phố L; Nơi cư trú: Tổ 36, phường Cốc Lếu, thành phố L, tỉnh L; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp trước khi phạm tội: Lao động tự do; Bố đẻ: Lưu Đình H; Mẹ đẻ: Doãn Thị T (Đều đã chết); Bị cáo chưa có vợ, chưa có con.
Nhân thân:
+ Tại Bản án số 01/HSST ngày 05/01/2004 của Toà án nhân dân thị xã L, tỉnh L xử phạt Lưu Đình T 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Lưu Đình T phải bồi thường cho 02 (Hai) bị hại trong vụ án với tổng số tiền là 1.239.000 đồng (Một triệu hai trăm ba mươi chín nghìn); Buộc Lưu Đình T phải chịu 50.000 đồng (Năm mươi nghìn) án phí hình sự sơ thẩm và 62.000 đồng (Sáu mươi hai nghìn) án phí dân sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/8/2009, Lưu Đình T đã được Chi cục thi hành án dân sự thành phố ra quyết định đình chỉ đối với việc thi hành các khoản tiền án phí hình sự, dân sự sơ thẩm, đồng thời các bị hại không có đơn yêu cầu Lưu Đình T thi hành án đối với các khoản tiền bồi thường, đã được xoá án tích.
+ Tại Bản án số 96/2005/HSST ngày 19/10/2005 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh L quyết định xử phạt Lưu Đình T 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Lưu Đình T phải chịu 50.000 đồng (Năm mươi nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 13/12/2005, đã được xoá án tích.
+ Tại Bản án số 113/2008/HSST ngày 03/9/2008 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh L quyết định xử phạt Lưu Đình T 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Lưu Đình T phải chịu 50.000 đồng (Năm mươi nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 11/3/2009, đã được xoá án tích.
+ Tại Bản án số 113/2009/HSST ngày 18/11/2009 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh L quyết định xử phạt Lưu Đình T 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Lưu Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 02/8/2010, đã được xoá án tích.
+ Tại Bản án số 72/2010/HSST ngày 23/6/2010 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh L quyết định xử phạt Lưu Đình T 07 (Bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, phạt Lưu Đình T số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu) sung quỹ Nhà nước; Buộc Lưu Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 20/9/2011, thi hành 50.000 đồng (Năm mươi nghìn) tiền phạt sung quỹ Nhà nước ngày 18/8/2015, tuy nhiên đến ngày 27/8/2015, Lưu Đình T đã được miễn thi hành án đối với số tiền 4.950.000 đồng (Bốn triệu chín trăm năm mươi nghìn) còn lại phạt sung quỹ Nhà nước, đã được xoá án tích.
Tiền án: 02 tiền án + Tại Bản án số 78/2020/HS - ST ngày 09/9/2020 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh L quyết định xử phạt Lưu Đình T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, buộc Lưu Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm ngày 28/10/2020, hiện chưa được xoá án tích.
+ Tại Bản án số 136/2022/HS - ST ngày 28/11/2022 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh L quyết định xử phạt Lưu Đình T 07 (Bảy) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Lưu Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Đối với bản án này, Lưu Đình T đã chấp hành xong hình phạt tù, thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm ngày 12/01/2023, hiện chưa được xoá án tích.
Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/12/2023. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L - Có mặt Những người tham gia tố tụng khác:
Bị hại: Anh Nguyễn Mỹ Đ- Sinh năm 1979; Địa chỉ: Tổ 12 phường Kim Tân, thành phố L, tỉnh L. Vắng mặt
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 03/12/2023, Nguyễn ĐT (Sinh năm 1986; Trú tại tổ 07, thị trấn Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh L) đi đến nhà của Lưu Đình T (Sinh năm 1985; Trú tại tổ 36, phường Cốc Lếu, thành phố L) để chơi. Tại đây, Lưu Đình T đã mượn của chị Lưu Thị M (Sinh năm 1981; Trú tại tổ 36, phường Cốc Lếu, thành phố L; Là chị gái của Lưu Đình T) 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE BKS 24B1 - xxxxx để Nguyễn ĐT điều khiển xe mô tô đưa Lưu Đình T đi chơi theo hướng từ phường Cốc Lếu đi phường Nam Cường, thành phố L. Trong quá trình đi chơi, do thường xuyên sử dụng chất ma tuý nên Nguyễn ĐT nảy sinh ý định rủ Lưu Đình T đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền mua ma tuý sử dụng, do vậy, Nguyễn ĐT nói với Lưu Đình T “Tối đi chợ đêm?”, Lưu Đình T hiểu ý Nguyễn ĐT muốn rủ Lưu Đình T cùng đi trộm cắp tài sản nên Lưu Đình T đồng ý. Sau đó, Nguyễn ĐT tiếp tục điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE BKS 24B1 – xxxxx chở Lưu Đình T đi quanh khu vực thành phố L để tìm tài sản trộm cắp. Đến khoảng 00 giờ 00 phút ngày 04/12/2023, khi Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đi đến khu vực quán ăn T, tổ 08, phường Nam Cường, thành phố L của anh Nguyễn Mỹ Đ(Sinh năm 1979; Trú tại tổ 12, phường Kim Tân, thành phố L), sau khi quan sát xung quanh không có người trông coi thì Nguyễn ĐT và Lưu Đình T nảy sinh ý định và thống nhất sẽ cùng nhau đột nhập vào quán ăn T để trộm cắp tài sản. Lúc này, Nguyễn ĐT điều khiển xe mô tô dừng cách vị trí quán ăn khoảng 20 mét, sau đó Nguyễn ĐT và Lưu Đình T cùng nhau đi bộ về phía đằng sau của nhà hàng, tại đây Nguyễn ĐT dùng tay tháo hàng rào thép gai để Nguyễn ĐT và Lưu Đình T cùng đi vào trong. Sau khi đi qua hàng rào, Nguyễn ĐT và Lưu Đình T quan sát thấy có 01 (Một) cánh cửa để đi vào trong nhà hàng bị hỏng hiện đang được buộc bằng dây thép nên Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đã nhặt 01 (Một) thanh gỗ ở cạnh đó để luồn qua dây thép đang buộc cửa, sau đó Nguyễn ĐT và Lưu Đình T cùng nhau vặn để dây thép buộc cửa bị tung ra. Sau khi phá được dây thép buộc cửa và đi vào trong nhà hàng, Nguyễn ĐT và Lưu Đình T phát hiện tại vị trí giữa nhà hàng có 01 (Một) quạt hút gió bằng kim loại và 01 (Một) máy bơm nước bằng kim loại màu xanh đen nhãn hiệu PENTAX, thấy vậy Nguyễn ĐT đã bê máy bơm nước, còn Lưu Đình T bê quạt hút gió ra ngoài, sau đó Nguyễn ĐT điều khiển xe mô tô chở Lưu Đình T cùng chiếc máy bơm nước và chiếc quạt hút gió vừa trộm cắp được đến cửa hàng sắt vụn của chị Kim Thị Y (Sinh năm 1978; Trú tại tổ 34, phường Cốc Lếu, thành phố L) để bán. Tại đây, do không thống nhất được giá cả mua bán nên Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đã để nhờ chiếc máy bơm và chiếc quạt hút gió vừa trộm cắp được tại nhà chị Kim Thị Y và hẹn ngày mai sẽ qua lấy, chị Kim Thị Y đồng ý, sau đó Nguyễn ĐT điều khiển xe mô tô chở Lưu Đình T quay lại nhà hàng T, tổ 08, phường Nam Cường, thành phố L để tiếp tục trộm cắp tài sản. Khi đến nơi, Nguyễn ĐT và Lưu Đình T tiếp tục đột nhập vào nhà hàng theo lối cửa sau như ban đầu, đồng thời Nguyễn ĐT và Lưu Đình T phát hiện tại vị trí giữa nhà hàng có 02 (Hai) chiếc quạt cây loại quạt công nghiệp màu đen nhãn hiệu KOMASU, thấy vậy, Nguyễn ĐT và Lưu Đình T mỗi người bê 01 (Một) chiếc quạt ra ngoài, sau đó Nguyễn ĐT điều khiển xe mô tô chở Lưu Đình T và 02 (Hai) chiếc quạt vừa trộm cắp được đến nhà chị Lưu Thị M tại số nhà 495, đường Nhạc Sơn, tổ 36, phường Cốc Lếu, thành phố L để cất giấu. Sau khi cất giấu xong tài sản, Nguyễn ĐT tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Lưu Đình T quay lại nhà hàng T, tổ 08, phường Nam Cường, thành phố L để nhằm mục đích tiếp tục trộm cắp tài sản. Khi đến nơi, Nguyễn ĐT để xe mô tô BKS 24B1 - xxxxx cách vị trí nhà hàng khoảng 40 mét, sau đó Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đang đi vào trong nhà hàng thì bị người dân phát hiện, bắt giữ và trình báo Công an phường Nam Cường, thành phố L. Quá trình làm việc, Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân Tại bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 70 ngày 08/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố L xác định: 01 (Một) máy bơm nước bằng kim loại màu xanh đen nhãn hiệu PENTAX có giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn); 02 (Hai) quạt cây loại quạt công nghiệp, màu đen nhãn hiệu KOMASU có giá 800.000 đồng/01 chiếc x 02 chiếc = 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn); 01 (Một) quạt hút gió bằng kim loại không rõ nhãn hiệu có giá 800.000 đồng (Tám trăm nghìn). Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn ĐT, Lưu Đình T đã trộm cắp của bị hại Nguyễn Mỹ Đngày 04/12/2023 tại tổ 08, phường Nam Cường, thành phố L là 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăm nghìn).
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Cáo trạng số 09/CT - VKS ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Nguyễn ĐT về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Lưu Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất mức độ thực hiện hành vi của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn ĐT và Lưu Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Đối với bị cáo Nguyễn ĐT: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17, 58; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo với mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù: Đối với bị cáo Lưu Đình T: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 17, 58; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án, vì vậy không áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.
Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bi cao Nguyễn ĐT và Lưu Đình T: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận tội ngày 04/12/2023, đã có hành vi cùng nhau đột nhập vào nhà hàng T của anh Nguyễn Mỹ Đtại tổ 08, phường Nam Cường, thành phố L để trộm cắp 01 (Một) quạt hút gió bằng kim loại, 01 (Một) máy bơm nước bằng kim loại màu xanh đen nhãn hiệu PENTAX và 02 (Hai chiếc quạt cây loại quạt công nghiệp màu đen nhãn hiệu KOMASU, căn cứ vào nội dung kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự xác định tổng trị giá tài sản mà Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đã trộm cắp ngày 04/12/2023 là 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăm nghìn) Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo kết luận định giá thì giá trị tài sản mà các bị cáo trộm cắp là 2.900.000 đồng Nguyễn ĐT, Lưu Đình T là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khoẻ, hiểu biết pháp luật nhưng thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Để có tiền tiêu xài cá nhân, ngày 04/12/2023, các bị cáo Nguyễn ĐT, Lưu Đình T đã có hành vi cùng nhau đột nhập vào nhà hàng T của anh Nguyễn Mỹ Đtại tổ 08, phường Nam Cường, thành phố L để trộm cắp 01 (Một) quạt hút gió bằng kim loại, 01 (Một) máy bơm nước bằng kim loại màu xanh đen nhãn hiệu PENTAX và 02 (Hai) chiếc quạt cây loại quạt công nghiệp màu đen nhãn hiệu KOMASU, căn cứ vào nội dung kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự xác định tổng trị giá tài sản mà Nguyễn ĐT và Lưu Đình T đã trộm cắp ngày 04/12/2023 trị giá 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăm nghìn đồng). Đối với bị cáo Lưu Đình T trước khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 04/12/2023 thì tại Bản án số 136/2022/HS - ST ngày 28/11/2022 của Toà án nhân dân thành phố L đã quyết định áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, đến nay tiền án này của Lưu Đình T chưa được xoá án tích. Do vậy, lần phạm tội này của Lưu Đình T thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trị an trên địa bàn thành phố L. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm khắc trước pháp luật để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.
Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, các bị cáo cùng có sự thống nhất trong quá trình thực hiện hành vi trộm cắp và cất giấu tài sản, trong đó bị can Nguyễn ĐT là người đầu tiên nảy sinh ý định rủ bị cáo Lưu Đình T trộm cắp tài sản, bị cáo Nguyễn ĐT cũng là người trực tiếp điều khiển xe mô tô chở Lưu Đình T, cùng bị cáo Lưu Đình T tham gia vào quá trình tìm kiếm, đột nhập, vận chuyển, cất giấu tài sản, do vậy, bị cáo Nguyễn ĐT phải là người giữ vai trò chính trong vụ án. Đối với bị cáo Lưu Đình T, là người đã đồng ý và tham gia cùng bị cáo Nguyễn ĐT từ khi Nguyễn ĐT nảy sinh ý định, tìm kiếm, vận chuyển đến khi cất giấu tài sản ngày 04/12/2023, do vậy, bị cáo Lưu Đình T phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với giá trị tài sản mà bị cáo đã trộm cắp cùng bị cáo Nguyễn ĐT. Các bị cáo đều là những người có nhân thân xấu, mặc dù đã có tiền án, tiền sự nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội, vì vậy cần có một mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệmhình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng
[4] Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương xác định các bị cáo là người sử dụng ma tuý, không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với 01 (Một) quạt hút gió bằng kim loại không rõ nhãn hiệu, 01 (Một) máy bơm nước bằng kim loại, màu xanh đen nhãn hiệu PENTAX và 02 (Hai) chiếc quạt cây loại quạt công nghiệp màu đen nhãn hiệu KOMASU: Quá trình điều tra xác định toàn bộ tài sản trên thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Mỹ Đức, do vậy, ngày 11/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã quyết định trả lại toàn bộ tài sản trên cho anh Nguyễn Mỹ Đlà có căn cứ Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE màu đen bạc BKS 24B1 - xxxxx, số máy 0760365, số khung 049654: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu của chị Lưu Thị M, do vậy, ngày 24/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã quyết định trả lại cho chị Lưu Thị M chiếc xe mô tô trên là có căn cứ Đối với bị hại Nguyễn Mỹ Đức: Sau khi nhận lại các tài sản đã bị Nguyễn ĐT, Lưu Đình T trộm cắp ngày 04/12/2023, bị hại Nguyễn Mỹ Đkhông yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự, đồng thời bị hại đề nghị xử lý các bị cáo theo quy định pháp luật Đối với chị Kim Thị Y, là người được bị cáo Nguyễn ĐT, Lưu Đình T gửi nhờ 01 (Một) quạt hút gió bằng kim loại và 01 (Một) máy bơm nước bằng kim loại màu xanh đen nhãn hiệu PENTAX và chị Lưu Thị M, là chủ sở hữu địa điểm mà bị cáo Nguyễn ĐT, Lưu Đình T cất giấu 02 (Hai) quạt cây loại quạt công nghiệp, màu đen nhãn hiệu KOMASU mà Nguyễn ĐT, Lưu Đình T trộm cắp được ngày 04/12/2023: Quá trình điều tra xác định các cá nhân trên không biết, không liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn ĐT, Lưu Đình T, do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L không đề cập xử lý đối với các cá nhân trên là có căn cứ.
[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Đối với bị cáo Nguyễn ĐT: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17, 58; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn ĐT phạm tội“Trộm cắp tài sản”.Phạt bị cáo Nguyễn ĐT 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2023.
Đối với bị cáo Lưu Đình T, Tên gọi khác: Lưu Tuấn T, Lưu Văn T: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 17, 58; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lưu Đình T phạm tội“Trộm cắp tài sản”.Phạt bị cáo Lưu Đình T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/12/2023.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghi quyêt sô 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy đinh vê an phi, lê phi Toa an: Buộc bị cáo Nguyễn ĐT và Lưu Đình T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luât.
Bản án 18/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 18/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về