Bản án về tội trộm cắp tài sản số 172/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 172/2022/HS-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 150/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn K, sinh năm: 1990; nơi sinh: tỉnh Cà Mau; nơi thường trú: Ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1959; bị cáo chưa có vợ con, tiền án: Ngày 03/3/2021 bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 30/2021/HSST (chấp hành xong ngày 08/11/2021); tiền sự: Ngày 03/11/2020 bị Công an xã Tân Lộc Đông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chưa nộp phạt); nhân thân: Ngày 23/5/2011, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 819/QĐ-UBND ngày 23/5/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (chấp hành xong ngày 31/01/2013); Bị bắt, tạm giam ngày 27 tháng 01 năm 2022 cho đến nay. Bị cáo có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 21 tháng 6 năm 2022.

- B hại: Ông Kim Văn C1, sinh năm 1967; nơi thường trú: Ấp 2, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; nơi tạm trú: số 1/194, khu phố L, phường G, thành phố A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người tham gia t tụng khác:

Người làm chứng: Ông Nguyễn Anh Y, sinh năm 1975, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 45 phút ngày 27/01/2022, Trần Văn K đi bộ dọc theo đường 22 tháng 12 ra hướng đường Đại lộ Bình Dương để tìm tài sản trộm cắp. Khi K đi ngang qua dãy trọ địa chỉ 1/183 khu phố L, phường G, thành phố A, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy xe môtô biển số 66M3-2544, kiểu dáng Wave, nhãn hiệu Sport Honda của ông Kim Văn Cl, đang dựng trước cửa phòng trọ số 1 không có người trông coi. K nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô trên nên đã lén lút đi đến gần rồi dắt xe môtô biển số 66M3-2544 đi được một đoạn khoảng 04m thì bị ông Kim Văn C1 phát hiện và tri hô “trộm, trộm..” nên K bỏ xe mô tô lại chạy bộ được một đoạn khoảng 100m thì bị ông C1 cùng người dân xung quanh đuổi theo bắt giữ được K giao cho cơ quan Công an xử lý.

Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu SportHonda, kiểu dáng Wave màu đỏ đen bạc, biển số 66M3-2544.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu SportHonda, kiểu dáng Wave màu đỏ đen bạc, biển số 66M3-2544 trị giá 2.300.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 149/CT-VKS -TA ngày 12 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Văn K mức hình phạt từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: không có.

Về xử lý vật chứng: không có.

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội; bị hại vẫn giữ nguyên ý kiến trong quá trình điều tra và không trình bày gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Trần Văn K có yêu cầu xét xử vắng mặt, đơn được Nhà tạm giữ công an thành phố Thuận An xác nhận ngày 21 tháng 6 năm 2022. Xét thấy đây là yêu cầu tự nguyện của bị cáo, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử và phù hợp với điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và trong nội dung đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[3] Trong bản tự khai (BL 53), biên bản ghi lời khai các ngày 28/01/2022 (BL 54-55); ngày 28/01/2022 (BL 56-57), biên bản hỏi cung bị can ngày 11/02/2022 (BL 58-59), …..Bị cáo Trần Văn K đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại và người làm chứng trong vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: khoảng 21 giờ 45 phút ngày 27 tháng 01 năm 2022, bị cáo Trần Văn K có hành vi lén lút trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu SportHonda của bị hại Kim Văn C1 trị giá 2.300.000 đồng. Trong vụ án này bị cáo K trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Trần Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì tham lam, tư lợi bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ lại hành vi phạm tội của mình, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 03/3/2021 bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 30/2021/HSST (chấp hành xong ngày 08/11/2021) chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tôi do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Đối chiếu với mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Đối với xe mô tô nhãn hiệu SportHonda, kiểu dáng Wave màu đỏ đen bạc, biển số 66M3-2544. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị hại Kim Văn C1 nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Về trách nhiệm dân sự: không có.

[11] Về xử lý vật chứng: không có.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 136; điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 01 năm 2022.

2. Về xử lý vật chứng: không có.

3. Về trách nhiệm dân sự: không có.

4. Về án phí: Bị cáo Trần Văn K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 172/2022/HS-ST

Số hiệu:172/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;