Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM BÌNH, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm: trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang và điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 15/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST-HS, ngày 11/8/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ma Bá H, sinh ngày 10/4/2004 tại huyện L, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Ma Bá B (đã chết) và bà Ma Thị H2, sinh năm 1983; vợ, con: Chưa có; Anh chị em ruột: 02 người, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án: Không. Tiền sự:

+ Quyết định số 135a/QĐ-XPHC ngày 04/6/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T xử phạt hành chính đối với Ma Bá H về hành vi cố ý gây thương tích, phạt tiền 1.000.000 đồng, đã chấp hành xong ngày 25/7/2022.

Nhân thân:

- Quyết định số 89/QĐ-XPHC ngày 27/9/2021, Công an huyện Lâm Bình xử phạt vi phạm hành chính đối với Ma Bá H về hành vi đánh bạc, phạt tiền 500.000 đồng, đã chấp hành xong ngày 18/01/2022 (hành vi thực hiện sau hành vi trộm cắp tài sản)

- Cáo trạng số 15/CT-VKSLB ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Bình truy tố Ma Bá H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và đang chờ xét xử.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2022 trong một vụ án khác.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Lâm Bình. Có mặt.

2. Họ và tên: Đoàn Văn H1, sinh ngày 03/01/1990 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi ĐKHKTT: Thôn 6, xã C, huyện M, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đoàn Văn T, sinh năm 1954 và bà Lê Thị S, sinh năm 1951; có vợ là bà Cao Thị T1, sinh năm 1989 và 01 con, sinh năm 2011; Anh chị em ruột: 06 người, bị cáo là con thứ sáu.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 02/2008/HSST ngày 25/01/2008 của Tòa án nhân dân huyện M’ Đrắk, tỉnh Đắk Lắk. Xử phạt 08 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 16 tháng về tội Trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong bản án).

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Ma Bá H: Bà Lại Khoa Lâm, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang. Có mặt

* Bị hại: Ông Ma Bá C, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1987, địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

+ Ông Triệu Phụng N, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn P, xã S, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

+ Bà Triệu Thị M2, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

+ Bà Ma Thị Đ, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 8/2021, Ma Bá H sinh ngày 10/4/2004, trú tại thôn V, xã T, huyện L đến nhà Đoàn Văn H1, sinh năm 1990, nơi đăng ký HKTT: thôn 6, xã C, huyện M, tỉnh Đ, tạm trú tại thôn V, xã T, huyện L chơi, Ma Bá H nói với Đoàn Văn H1 “chán quá không có tiền tiêu, nhà ông C có máy cưa xăng anh em mình đi lấy” Đoàn Văn H1 đồng ý và hỏi lại “khi nào đi” thì Ma Bá H nói “chưa biết bao giờ có thời gian thì đi” . Khoảng 13 giờ ngày 29/8/2021 Ma Bá H đến nhà Đoàn Văn H1 và nói “Dậy cùng tao đi lấy máy cưa xăng” Ma Bá H bảo Đoàn Văn H1 cầm theo 01 chiếc cờ lê nhưng Đoàn Văn H1 không cầm, Ma Bá H tự cầm theo 01 chiếc cờ lê và nói “Tao đi trước, mày đi sau trông người cho tao khoảng 10 đến 15 phút không thấy tao ra thì ra cầu Cuống đợi” xong Ma Bá H đi trước, Đoàn Văn H1 đến nhà Triệu Thị M2 để mượn xe mô tô, trên xe có sẵn 01 bao tải dứa, rồi Đoàn Văn H1 điều khiển xe. Khi đến gần nhà ông Ma Bá C, sinh năm 1977, trú cùng thôn, Đoàn Văn H1 đứng ngoài canh gác, Ma Bá H đi theo ngách nhà ông C và nhà ông Ma Bá L đi vào nhà bếp của ông C thì thấy 01 máy cưa xăng, nhãn hiệu Husqvarna 365 màu cam để trên nền nhà, Ma Bá H lấy trộm máy cưa xăng của ông C rồi mang ra bờ suối cách nhà ông C 97m tháo lam và xích ra, bỏ lam, xích, cờ lê lại, Ma Bá H xách máy cưa xăng men theo bờ suối xuôi xuống đến cầu C (thuộc thôn B, xã M, huyện L) thì gặp Đoàn Văn H1 đang chờ ở đó, Ma Bá H và Đoàn Văn H1 cho máy cưa xăng vào bao tải dứa, Đoàn Văn H1 điều khiển xe mô tô chở Ma Bá H mang máy cưa xăng đến nhà ông Triệu Phụng Ng, trú tại thôn P, xã S, huyện L để gửi, ông Ngan đồng ý. Ma Bá H và Đoàn Văn H1 đi về nhà.

Khoảng 15 giờ cùng ngày Đoàn Văn H1 mượn xe mô tô biển kiểm soát 22B2-174.74 của bà Ma Thị Đ, trú cùng thôn, đến nhà ông N lấy máy cưa xăng mang đến cửa hàng Duy Mạnh do anh Nguyễn Văn M trú tại thôn T, xã P, huyện C bán được 4.000.000đ. Sau khi bán máy cưa xăng xong Đoàn Văn H1 đi về nhà khoảng 18 giờ cùng ngày Đoàn Văn H1 về đến nhà Ma Bá H nói là “tao bán được máy rồi, tý mày vào nhà tao lấy tiền và cầm lam với xích vào” khoảng 20 phút sau Ma Bá H mang theo lam và xích máy cưa xăng đã tháo trước đó đến nhà Đoàn Văn H1 đưa cho Đoàn Văn H1 đem cất giấu, sau đó Đoàn Văn H1 nói với Ma Bá H là bán máy cưa xăng được 2.000.000đ và đưa cho Ma Bá H 900.000đ, khoảng 03 ngày sau Đoàn Văn H1 đưa tiếp cho Ma Bá H 300.000đ nữa. Số tiền bán máy cưa xăng các bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất máy cưa xăng ông C đã tìm kiếm nhưng không thấy, ngày 30/9/2021 do nghi ngờ Ma Bá H trộm cắp nên ông C đã viết đơn trình báo.

Kết luận định giá tài sản số 405/KL-ĐGTS ngày 27/10/2021 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lâm Bình: Kết luận 01 máy cưa xăng nhận hiệu Husqvarna 365, màu cam trị giá còn lại là 7.600.000đ.

* Về vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ 01 lam máy cưa xăng nhãn hiệu“STIHL”, chiều dài 97cm và 01 xích cưa, chiều dài 110cm, đây là tài sản thuộc sở hữu của bị hại Ma Bá C và ông C có yêu cầu được trả lại các tài sản này. Đối với máy cưa xăng sau khi Đoàn Văn H1 bán cho anh Nguyễn Văn M, anh M đã lắp thêm lam và xích, bán cho một người đàn ông không quen biết nên không thu hồi được.

* Về trách nhiệm dân sự: Ngày 20/01/2022 Đoàn Văn H1 đã nộp số tiền bồi thường 4.000.000đ tại Cơ quan điều tra để bồi thường cho bị hại ông Ma Bá C. Sau đó, Đoàn Văn H1 tiếp tục bồi thường cho ông C 1.000.000đ. Ngày 05/6/2022, Ma Bá H đã bồi thường cho ông C 4.000.000đ. Ông C không yêu cầu, đề nghị các bị cáo bồi thường gì thêm.

Tại giai đoạn điều tra các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trên cơ sở hành vi của các bị cáo, ngày 12 tháng 7 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Bình đã ban hành Cáo trạng số: 09/CT-VKSLB, truy tố bị cáo Ma Bá H và Đoàn Văn H1 có lý lịch nêu trên về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng đã ban hành và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Ma Bá H và Đoàn Văn H1 phạm tội Trộm cắp tài sản.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 101 Bộ luật Hình sự với bị cáo Ma Bá H.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đoàn Văn H1.

- Xử phạt bị cáo Ma Bá H từ 7 đến 10 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Đoàn Văn H1 từ 7 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị hại ông Ma Bá C 01 lam máy cưa xăng nhãn hiệu“STIHL”, chiều dài 97cm và 01 xích cưa, chiều dài 110cm.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự: Ghi nhận việc bị cáo Ma Bá H đã bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000đ. Bị cáo Đoàn Văn H1 đã bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ, trong đó ông C đã nhận 1.000.000đ, số tiền 4.000.000đ còn lại bị cáo nộp tại cơ quan Công an hiện đang được giữ tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Bình.

* Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để quyết định về án phí; áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự để tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Ma Bá H nhất trí với bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Ma Bá H được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Các bị cáo không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị hại không có ý kiến tranh luận, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ma Bá H và Đoàn Văn H1. Nói lời sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Lâm Bình; Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có lời khai tại cơ quan điều tra, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[3] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 29/8/2021 tại thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang, Ma Bá H và Đoàn Văn H1 đã có hành vi trộm cắp của ông Ma Bá C 01 chiếc máy cưa xăng nhãn hiệu Husqvarna 365, màu cam trị giá 7.600.000đ (bảy triệu sáu trăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Ma Bá H và Đoàn Văn H1 đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo đã lợi dụng sơ hở của bị hại để trộm cắp tài sản phục vụ nhu cầu của bản thân; hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do lười lao động, thích hưởng thụ, coi thường pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện tội phạm dưới hình thức đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn.

Xét vị trí, vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo Ma Bá H là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Đoàn Văn H1, chuẩn bị công cụ, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên bị cáo giữ vai trò chính trong vụ án.

Bị cáo Đoàn Văn H1 khi được bị cáo Ma Bá H rủ đi trộm cắp tài sản, đã đồng ý, đứng canh gác cho bị cáo Ma Bá H thực hiện hành vi trộm cắp, mượn xe máy để chở tài sản trộm cắp được đi tiêu thụ, trực tiếp bán tài sản trộm cắp và chia tiền. Tuy nhiên tính chất, vị trí, vai trò của bị cáo trong vụ án là thứ yếu và thấp hơn bị cáo Ma Bá H.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Đối với bị cáo Ma Bá H: Đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; khi phạm tội bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ma Bá H. Do đó, bị cáo Ma Bá H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Đối với bị cáo Đoàn Văn H1: Đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo cho bị cáo Đoàn Văn H1. Vì vậy, bị cáo Đoàn Văn H1 được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt chính: Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

+ Đối với bị cáo Ma Bá H: Bị cáo có 01 tiền sự. Khi thực hiện hành vi trộm cắp trong vụ án này bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Sau đó, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc và bị xử lý vi phạm hành chính hành về vi đánh bạc. Khi bị khởi tố về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tại cáo trạng số 15/CT-VKSLB ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Bình truy tố Ma Bá H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và đang chờ xét xử. Mặc dù đã bị khởi tố và đang trong quá trình điều tra nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội cho thấy thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Từ những nhận định, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và có căn cứ.

Đối với bị cáo Đoàn Văn H1: Năm 2008, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện M’ Đrắk, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 08 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 16 tháng về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong bản án. Xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và có thái độ ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử thấy rằng, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để răn đe, giáo dục phòng ngừa tội phạm, thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và có căn cứ.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác định, các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị hại ông Ma Bá C 01 lam máy cưa xăng nhãn hiệu“STIHL”, chiều dài 97cm và 01 xích cưa, chiều dài 110cm.

[8]. Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Ma Bá H đã bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000đ. Bị cáo Đoàn Văn H1 đã bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ, trong đó ông C đã nhận 1.000.000đ, số tiền 4.000.000đ còn lại bị cáo nộp tại cơ quan Công an hiện đang được giữ tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Bình.

[9]. Đối với Triệu Thị M1 và Ma Thị Đ là người đã cho Đoàn Văn H1 mượn xe mô tô, Triệu Phụng N là người cho các bị cáo gửi nhờ máy cưa xăng, anh Nguyễn Văn M là người đã mua máy cưa xăng nhưng cả bà M1 và bà Đ không biết Hùng sử dụng vào mục đích phạm tội, ông N và anh M không biết đó là tải sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.

[10]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 90, 91, 98, Điều 101 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ma Bá H.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đoàn Văn H1.

- Tuyên bố: Bị cáo Ma Bá H, Đoàn Văn H1 phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt: Bị cáo Ma Bá H 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn H1 8 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/9/2022).

* Giao bị cáo Đoàn Văn H1 cho UBND xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Là nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

* Trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án hình sự.

* Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Ghi nhận bị cáo Ma Bá H đã tự nguyện bồi thường cho bị hại ông Ma Bá C số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng). Ông C đã nhận đủ tiền.

Ghi nhận bị cáo Đoàn Văn H1 đã tự nguyện bồi thường cho bị hại ông Ma Bá C số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Ông C đã nhận đủ 1.000.000đ (Một triệu đồng). Số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) còn lại hiện đang tạm gửi tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Bình (theo uỷ nhiệm chi, chuyển khoản số 07, lập ngày 14/7/2022 giữa đơn vị trả tiền Công an huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang với đơn vị nhận tiền Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho ông Ma Bá C 01 lam máy cưa xăng, tổng chiều dài 97cm, tại lam có chữ “STIHL”, lam đã qua sử dụng và 01 xích máy cưa xăng, tổng chiều dài 110cm, xích cũ đã qua sử dụng. (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/7/2022 giữa Công an huyện Lâm Bình với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Bình)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Bị cáo Ma Bá H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

- Bị cáo Đoàn Văn H1 phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Bình - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;