Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 106/2021/HSST ngày 21 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Trần Thanh L, sinh năm 1986; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Số 9J đường N, phường C, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Thanh L và bà Trần Thị Thu N, có vợ và con 14 tháng tuổi; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 363/2019/QĐ-TA ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Trần Thanh L với thời hạn 15 tháng; bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/5/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Hồ Đình H, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ T, ấp P, xã A, huyện H, tỉnh B. (vắng mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Nguyễn D, sinh năm 2002; địa chỉ: Ấp T, xã Th, huyện B, tỉnh V. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào khoảng 21 giờ ngày 05/5/2021, M (không rõ lai lịch) rủ bị cáo Nguyễn Trần Thanh L đi tạt sơn nhà người dân. Bị cáo L điều khiển xe máy hiệu Wave (không rõ biển số) chở M đi theo sự chỉ dẫn của M nhưng lại không thấy tạt sơn nhà nào. Đến khoảng 01 giờ ngày 06/5/2021, khi đến trước Miếu thuộc hẻm 100, nhà không số, Tổ 9, Khu phố 2, đường Lê Văn Lương, phường Tân Hưng, Quận 7, M nói bị cáo dừng xe lại, đứng ngoài chờ M vào trong. Khoảng 10 phút sau, M ra nói với bị cáo L trong hẻm có 01 xe máy hiệu Wave, M kêu bị cáo vào trong đó lấy trộm xe đồng thời đưa cho bị cáo 01 bộ đoãn dùng để mở khóa xe. Bị cáo đồng ý, cầm bộ đoãn đi vào trong hẻm. Khi thấy 01 xe máy hiệu Wave, biển số C311-09832 đang dựng tại lề đường, không có ai trông coi, L đẩy xe máy ra ngoài chỗ M. M kêu L đẩy xe máy vừa trộm được về xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, còn M lấy xe của L đi đâu không rõ. Khi L đẩy xe máy vừa trộm đến đường Trần Xuân Soạn, Quận 7 gặp anh Võ Nguyễn D chạy ngang hỏi xe bị cáo vậy,bị cáo nói xe hết xăng và nhờ D đẩy hộ xe về Khu dân cư Trung Sơn, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh. Khi đến số 45, Đường số 4, Khu dân cư Trung Sơn, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, bị lực lượng tuần tra của Công an huyện Bình Chánh phát hiện, bắt giữ.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Nguyễn Trần Thanh L đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe máy biển số C311-09832 là tài sản bị chiếm đoạt, bị hại đã nhận lại.

Thu giữ của bị cáo:

- 01 bộ đoản và khóa gồm 01 chìa khóa dài 14 cm, đầu tròn được gắn thêm thanh kim loại dài khoản 5 cm: một đầu lục giác, một đầu hình trụ và một thanh kim loại dài khoảng 7cm: một đầu dẹp, một đầu lục giác là công cụ phạm tội.

Kết luận định giá tài sản số 163/KL-HĐĐGTTHS ngày 13/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: 01 xe máy biển số C311- 09832 có giá trị 8.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên Bản cáo trạng số 89/CT-VKSQ7 ngày 20 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trần Thanh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định bị cáo Nguyễn Trần Thanh L đã có hành vi trộm cắp tài sản.

Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo và đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Thanh L từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì, bị cáo biết lỗi, thừa nhận hành vi của mình , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trần Thanh L đã thừa nhận:

Vào khoảng 01 giờ ngày 06/5/2021, bị cáo Nguyễn Trần Thanh L đã thực hiện hành vi lấy trộm 01 xe máy biển số C311-09832 có giá trị 8.000.000 đồng.

3 Về động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Xét bị cáo là người có đủ sức khỏe để lao động kiếm sống, bằng ý thức của mình, bị cáo biết rõ đó là tài sản đang thuộc sở hữu của người khác, nhưng do lười lao động mà lại muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài cho bản thân nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở về cách quản lý tài sản của chủ sở hữu để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự quản lý xã hội của Nhà nước, gây tác động xấu đến đời sống xã hội, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân trong việc bảo vệ tài sản.

4 Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trần Thanh L phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị can có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Xét bản luận tội của Viện kiểm sát cũng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

5 Đối với người thanh niên tên M do chưa rõ nhân thân lai lịch nên đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

7 Về xử lý vật chứng:

- 01 bộ đoản và khóa gồm 01 chìa khóa dài 14 cm, đầu tròn được gắn thêm thanh kim loại dài khoản 5 cm: một đầu lục giác, một đầu hình trụ và một thanh kim loại dài khoảng 7cm: một đầu dẹp, một đầu lục giác là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo, người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trần Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s, khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Thanh L 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 06/5/2021.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ đoản và khóa gồm 01 chìa khóa dài 14 cm, đầu tròn được gắn thêm thanh kim loại dài khoản 5 cm: một đầu lục giác, một đầu hình trụ và một thanh kim loại dài khoảng 7cm: một đầu dẹp, một đầu lục giác (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 108 ngày 06/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo Nguyễn Trần Thanh L phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Trần Thanh L có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;