Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 3 năm 2022 tại Hội Tr xét xử Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Văn Tr; sinh năm 2000 tại G; nơi cư trú: Tổ 8, phường IaKring, thành phố Pleiku, tỉnh G; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam. Bị cáo có cha là ông Lê Văn S và mẹ là bà Nguyễn Thị Thu N. Bị cáo có vợ là Trần Minh K (đã ly hôn) và có một người con sinh năm 2019; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/5/2014, bị Công an phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh G ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với hình thức Cảnh cáo (Được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính). Ngày 02/10/2021, bị bắt quả tang về hành vi trộm cắp tài sản, bị tạm giữ sau đó chuyển tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1994. Trú tại: Thôn 6, xã IB, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.

Anh Nguyễn Quốc V, sinh năm 1984. Trú tại: Thôn 6, xã IB, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thu Ng, sinh năm 1984. Trú tại: Thôn 10, xã Ia Pết, huyện Đ, tỉnh G. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cac tai liêu co trong hồ sơ vu an va diễn biến tai phiên toa, nôi dung vu an đươc tom tắt như sau:

Trong khoảng thời gian tháng 9 và tháng 10 năm 2021, Lê Văn Tr đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà kho Quang Pháp của gia đình anh Nguyễn Quốc H (sinh năm 1994, trú tại Thôn 6, xã IB, huyện Đ, tỉnh G) thuộc thôn Hàm Rồng, xã IB, huyện Đ, tỉnh G. Cụ thể:

Lần thứ nhất: Do trước đây có đến nhà kho Quang Pháp nên Tr biết nhà kho này không có người trông coi. Khoảng 19 giờ một ngày cuối tháng 9 năm 2021, khi đang đi chơi với một người quen có tên thường gọi là “” (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) trên đường Tr Chinh, thành phố Pleiku, tỉnh G, Tr đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại nhà kho Quang Pháp nên đã rủ Tý cùng tham gia và Tý đồng ý. Tý điều khiển xe mô tô của mình (hiện không rõ nhãn hiệu, biển số) chở Tr đến trước nhà kho Quang Pháp, để lại xe trước tường rào rồi leo vào bên trong khuôn viên nhà kho. Khi đi đến nhà kho lớn thì cả hai phát hiện có 01 chiếc xe mô tô và 03 chiếc máy bơm nước để gần nhau. Cả hai đã lấy trộm 01 chiếc máy bơm nước hiệu Hitachi, công suất 03HP mang ra ngoài rồi Tý điều khiển xe chở Tr cùng chiếc máy bơm nước trên đi đến tiệm thu mua phế liệu của anh Nguyễn Xuân Thu (sinh năm 1970) tại số 357 đường Hoàng Sa, thành phố Pleiku, tỉnh G bán được 500.000 đồng. Số tiền trên cả hai đã tiêu xài hết. Qua làm việc, anh Thu không thừa nhận có mua chiếc máy bơm nước như lời khai của Lê Văn Tr nên không thu hồi được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 141/KL-HĐĐGTS ngày 22/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ kết luận: 01 máy bơm nước hiệu Hitachi, công suất 03HP (mua năm 2015) trị giá 750.000 đồng.

Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, Lê Văn Tr chưa có tiền án; chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản nên hành vi trộm cắp nêu trên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Văn Tr.

Lần thứ hai: Khoảng hai ngày sau khi trộm cắp máy bơm nước cùng với đối tượng tên Tý, Lê Văn Tr tiếp tục nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại nhà kho Quang Pháp. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Tr đi bộ từ nhà bà ngoại tại Thôn 10, xã Ia Pết, huyện Đ, tỉnh G đến nhà kho Quang Pháp ngồi đợi đến lúc vắng người rồi leo tường rào vào bên trong khuôn viên nhà kho. Tr đi đến nhà kho lớn lấy trộm 01 chiếc máy bơm nước hiệu Hitachi, công suất 10HP mang ra ngoài rồi quay vào dắt 01 chiếc xe đạp ra ngoài. Tr điều khiển xe đạp chở chiếc máy bơm nước trên đi giấu ở một bụi cây cách nhà kho khoảng 2km và điều khiển xe đạp quay lại giấu ở bụi cây gần nhà kho rồi đi bộ về. Đến khoảng 05 giờ sáng ngày hôm sau, Tr đi bộ đến vị trí giấu xe đạp rồi điều khiển xe đi đến vị trí giấu máy bơm nước và dùng xe đạp chở máy bơm nước đi đến tiệm phế liệu của anh Nguyễn Văn Tuấn (sinh năm 1974) tại số 1061 đường Tr Chinh, thành phố Pleiku, tỉnh G bán được 3.000.000 đồng. Sau khi bán máy bơm nước, Tr điều khiển xe đạp về lại kho Quang Pháp để lại xe đạp vào vị trí cũ rồi đi về. Số tiền trên, Tr đã tiêu xài hết. Qua làm việc, anh Tuấn không thừa nhận có mua chiếc máy bơm nước như lời khai của Lê Văn Tr nên không thu hồi được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 141/KL-HĐĐGTS ngày 22/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ kết luận: 01 máy bơm nước hiệu Hitachi, công suất 10HP (mua năm 2019) trị giá 6.000.000 đồng; 01 xe đạp nhãn hiệu Thống Nhất loại GN màu xanh da trời nhạt (mua vào năm 2019) trị giá 500.000 đồng Lần thứ ba: Vào khoảng 18 giờ ngày 01/10/2021, Lê Văn Tr nhờ anh Nguyễn Đình Trọng (sinh năm 1997, trú tại Tổ 8, phường Ia Kring, TP. Pleiku, tỉnh G) chở từ Thôn 10, xã Ia Pết, huyện Đ đến ngã ba cây xăng Tín Nhiệm thuộc thôn Hàm Rồng, xã IB để chơi với bạn. Sau đó, Tr đi bộ đến nhà kho Quang Pháp trèo tường rào vào nhà kho lớn thì phát hiện thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 37M3- 6947 của anh Nguyễn Quốc V (là anh trai của anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1984, trú tại Thôn 6, xã IB, huyện Đ, tỉnh G) đang dựng tại đây và không khóa cổ xe. Tr lấy vòi nước xịt rửa sạch xe rồi dắt ra sân nhà kho. Tr đi vào căn nhà ở gần cổng nhà kho lục tìm tài sản nhưng không tìm được gì nên đi ra ngoài thì thấy cổng nhà kho không khóa. Tr mở cổng rồi dắt xe mô tô 37M3-6947 đi ra ngoài đường trước nhà kho để xổ dốc nổ máy nhưng xe không nổ. Lúc này, trời mưa nên Tr dựng xe mô tô trên tại lề đường cách nhà kho khoảng 40 mét rồi đi vào nhà kho nằm ngủ.

Đến khoảng 06 giờ ngày 02/10/2021, anh Nguyễn Quốc H đi đến nhà kho thì phát hiện chiếc xe mô tô trên của gia đình anh đang dựng ở lề đường. Anh H đi vào nhà kho thì phát hiện Lê Văn Tr đang ngủ nên đã gọi người nhà đến và báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đến lập Biên bản tiếp nhận người bị bắt trong Tr hợp phạm tội quả tang đối với Lê Văn Tr.

Tại Kết luận định giá tài sản số 104/KL-HĐĐGTS ngày 05/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ kết luận: Một xe mô tô biển số 37M3-6947, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, số khung HJC4329AY280946, số máy JC43E- 5705319 (mua năm 2013) trị giá 4.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô biển số 37M3-6947, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, số khung HJC4329AY280946, số máy JC43E-5705319 cho anh Nguyễn Quốc V.

Về dân sự: Bị cáo Tr đã tác động gia đình bồi thường cho anh Nguyễn Quốc H số tiền 6.750.000 đồng nên anh H không yêu cầu gì thêm. Anh Nguyễn Quốc V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số: 11/CT-VKS ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh G truy tố bị cáo Lê Văn Tr về tôi “Trôṃ cắp tai san” quy định tại khoan 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Lê Văn Tr và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điêm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Văn Tr;

Xử phạt bị cáo Lê Văn Tr từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Lê Văn Tr không có tài sản riêng, không đảm bảo thi hành án đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền, nên không áp dụng.

Về án phí hình sự: Bị cao Lê Văn Tr phai chiụ theo quy điṇ h cua phap luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn Tr nhất trí với quyết định truy tố và bản luận tội của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

Căn cứ vào các tình tiết, chứng cứ nêu trên,

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội cua bi ̣ cao và hình phạt: Trong khoảng thời gian tháng 9 và tháng 10 năm 2021, Lê Văn Tr đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản: của anh Nguyễn Quốc H gồm 01 máy bơm nước hiệu Hitachi, công suất 10HP có trị giá 6.000.000 đồng; 01 xe đạp nhãn hiệu Thống Nhất trị giá 500.000 đồng và của anh Nguyễn Quốc gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RXS, biển số 37M3-6947 có trị giá 4.000.000 đồng. Tài sản mà bị cáo trộm cắp có tổng trị giá là 10.500.000 đồng. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác của bị cáo Lê Văn Tr là nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Do vây, bị cáo pH chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp, chỉ vì bản chất lười lao động, thích tiêu xài trên sức lao động của người khác nên bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, xâm phạm trật tự trị an xã hội tại địa phương được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy pH áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lê Văn Tr không có tài sản riêng, không đảm bảo thi hành án đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân, tinh tiết tăng năng trach nhiêm hinh sư: Bị cáo Tr có nhân thân xấu. Bị cáo hai lần thực hiện hành vi trộm cắp đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, bị cáo pH chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tinh tiết giam nhe trach nhiêm hinh sư: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô biển số 37M3-6947, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, số khung HJC4329AY280946, số máy JC43E-5705319. Quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của anh Nguyễn Quốc V, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trả lại cho anh Nguyễn Quốc V là có cơ sở.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Tr đã tác động gia đình là bà Nguyễn Thị Thu Nguyệt bồi thường cho bị hại Nguyễn Quốc H số tiền 6.750.000đồng, anh H không yêu cầu gì thêm. Bà Nguyễn Thị Thu Nguyệt không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã bồi thường bị hại Nguyễn Quốc H. Bị hại Nguyễn Quốc V đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo pH chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Văn Tr;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn Tr pham tôi “Trộm cắp tài sản”

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lê Văn Tr 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 02/10/2021).

3. Về án phí:

Xử buộc bị cáo Lê Văn Tr phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngay 25/3/2022), bi ̣ cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong Thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;