Bản án về tội trộm cắp tài sản số 147/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 147/2021/HS-ST NGÀY 19/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 132/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trương Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1997 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Cha: Trương Văn T1; Mẹ: Lê Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/6/2021 cho đến nay. (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2. Trương Văn H; Tên gọi khác: Hiếu; Giới tính: Nam; Sinh năm 1998 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Cha: Trương Văn T1; Mẹ: Lê Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/6/2021 cho đến nay. (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Bị hại:

1. Anh Đoàn Hữu T - sinh năm 1987; Địa chỉ: Ấp 5, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

2. Ông Đoàn Xuân B– sinh năm 1959; Địa chỉ: Ấp 5, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Lê Thị Phương N – sinh năm 1970; Địa chỉ: ấp 1, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

2. Chị Nguyễn Thị Bích P – sinh năm 1996; Địa chỉ: Ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

Người làm chứng: Ông Hồ Văn L – sinh năm 1976; Địa chỉ: Ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp ổn định, cần tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng nên vào khoảng 16 giờ ngày 27/6/2021, Trương Văn T rủ em ruột Trương Văn H đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, H đồng ý. Sau đó, T mượn xe mô tô của 01 nam thanh niên có tên thường gọi “S” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) là người bạn mới quen đang ngủ ở nhà T và chở H đến vị trí trước khu vực Công ty Cổ phần xây dựng Cao Su, thuộc ấp 5, xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai tìm tài sản trộm cắp. T và H quan sát thấy nhiều thanh sắt, dạng xà gồ lợp mái nhà để dưới khu công trình đang xây dựng của Công ty, bảo vệ sơ hở trong công tác quản lý nên T dừng xe để ngoài đường, phía trước Công ty rồi cùng H lén lút đột nhập vào trộm cắp 01 thanh sắt dài 6,5m, nặng 73kg. Sau đó, T và H khiêng thanh sắt ra vị trí để xe định chở đi tiêu thụ nhưng do thanh sắt nặng không chở được nên T quay về nhà gặp S, nhờ S đi mượn xe kéo đến chở giúp. Trong thời gian chờ S mang xe kéo đến, T và H đem cây sắt cất giấu vào một vườn tràm gần đó rồi tiếp tục đi tìm tài sản trộm cắp thì phát hiện tại rẫy trồng cây xoài của anh Đoàn Hữu T, sinh năm 1987, thường trú tại ấp 5, xã H, huyện L cách đó khoảng 300 mét có 01 hệ thống máy bơm gồm: 01 động cơ Diesel có gắn 01 đầu bơm dùng để xịt thuốc . Quan sát thấy không có người trông coi, quản lý nên T rủ H dùng tay khiêng hệ thống máy bơm ra vị trí đang cất giấu thanh sắt. Khoảng 20 phút sau, S điều khiển xe mô tô kéo theo Rơmooc đến, cả ba cùng khiêng tài sản trộm cắp được lên xe. Lúc này, anh Hồ Văn L, sinh năm 1976, thường trú tại ấp 1, xã H có rẫy gần đó phát hiện, nghi ngờ T cùng đồng bọn đã trộm cắp máy bơm của anh T nên đã gọi điện thoại thông báo cho anh T biết. Sau đó, S điều khiển xe kéo chở T ngồi sau, H đi bộ theo sau tẩu thoát. Khi đi được khoảng 200 mét thì bị anh T và anh L chặn lại và giữ được T cùng toàn bộ vật chứng liên quan, trình báo Công an xã Xuân Hưng tiếp nhận, xử lý. Riêng H và đối tượng S đã bỏ chạy tẩu thoát. Đến 11 giờ ngày 28/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Xuân Lộc đã truy bắt được Trương Văn H đưa về làm việc.

Quá trình điều tra, xác định ngoài vụ việc trên, Trương Văn T và Trương Văn H còn thực hiện 02 (hai) vụ trộm cắp tài sản trước đó tại Công ty Cổ phần xây dựng Cao Su, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ ngày 21/6/2021, T mượn xe mô tô của S và điều khiển chở H đến khu công trình xây dựng của Công ty Cổ phần xây dựng Cao Su trộm cắp 02 thanh sắt xà gồ đã được hàn dính vào nhau có tổng trọng lượng 55kg rồi đem đến đến cơ sở thu mua phế liệu của bà Lê Thị Phương N, sinh năm 1970, thuộc tại ấp 1, xã H, huyện L bán được số tiền 440.000 đồng. Số tiền có được, T và H chia nhau tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 22 giờ ngày 24/6/2021, T và H tiếp tục đến Công ty Cổ phần xây dựng Cao Su trộm cắp 06 thanh sắt xà gồ của công ty rồi cất giấu tại vườn tràm gần đó. Đến khoảng 08 giờ ngày 25/6/2021, T thuê một người đàn ông (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) điều khiển xe ba gác đến vị trí trên chở 06 thanh sắt xà gồ trộm cắp được đi bán nhưng sau đó do trong người không được khỏe, T nói H đi cùng với lái xe ba gác chở 06 thanh xà gồ đến cơ sở thu mua phế liệu của chị Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1996 thuộc ấp 1, xã H, huyện L bán được số tiền 1.500.000 đồng. Số tiền có được, H trả công cho lái xe ba gác 300.000 đồng, còn lại 1.200.000 đồng, H và T chia nhau tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.

*Tại bản kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐĐG ngày 30/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: 02 (hai) thanh sắt xà gồ hàn dính vào nhau, tổng trọng lượng sắt 55kg, đã qua sử dụng trị giá 385.000đ (Ba trăm tám mươi lăm ngàn đồng); 06 (sáu) thanh sắt xà gồ bằng sắt chữ U, mỗi cây sắt có chiều dài 5,8m, rộng 18 cm, đã qua sử dụng trị giá 1.312.500đ (Một triệu ba trăm mười hai ngàn năm trăm đồng); 01 (một) thanh sắt dài 6,5m, trọng lượng 73kg (dạng khung đỡ xà gồ), đã qua sử dụng trị giá 511.000đ (Năm trăm mười một ngàn đồng); 01 (một) động cơ diesel nhãn hiệu start gắn 01 (một) đầu bơm không rõ nhãn hiệu dùng xịt thuốc sâu, đã qua sử dụng trị giá 3.000.000đ ( Ba triệu đồng). Tổng trị giá tài sản cần định giá là 5.208.500 đồng (Năm triệu hai trăm lẻ tám nghìn năm trăm ngàn đồng).

* Vật chứng vụ án và xử lý vật chứng:

- 01 (một) Rơmooc tự chế, là phương tiện do các đối tượng sử dụng đi trộm cắp tài sản.

- 01 (một) hệ thống máy bơm gồm 01 động cơ Diesel có gắn 01 đầu bơm dùng để xịt thuốc. Quá trình điều tra xác định, tài sản trên do anh Đoàn Hữu T là chủ sở hữu. Cơ quan CSĐT Công an huyện Xuân Lộc đã trao trả cho anh T theo quy định của pháp luật.

- 01 (một) thanh sắt dài 6,5m, nặng 73kg (dạng khung đỡ xà gồ); 06 (sáu) thanh xà gồ hình chữ U, mỗi cây có chiều dài 5,8m, rộng 18cm. Quá trình điều tra xác định, tài sản trên do Công ty Cổ phần xây dựng Cao Su là chủ sở hữu. Cơ quan CSĐT Công an huyện Xuân Lộc đã trao trả cho anh Đoàn Xuân B là đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.

- Đối với 02 (hai) thanh xà gồ bằng sắt được hàn dính vào nhau (có tổng trọng lượng 55kg), là tài sản các đối tượng trộm cắp vào ngày 21/6/2021. Sau khi mua, bà Lê Thị Phương N đã bán lại cho 01 người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) nên chưa thu hồi được.

* Trách nhiệm dân sự:

- Anh Đoàn Hữu T, ông Đoàn Xuân B (là người đại diện hợp pháp của bị hại Công Ty Cổ Phần Cao Su Đồng Nai) đã nhận lại được tài sản bị mất nên không có yêu cầu gì về dân sự.

- Chị Nguyễn Thị Bích P đã tự nguyện nộp lại tài sản mua của Trương Văn H và không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 138/CT-VKSXL ngày 05 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đã truy tố bị cáo Trương Văn T và Trương Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc tham gia phiên tòa phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trương Văn T từ 10 tháng đến 12 tháng tù, xử phạt bị cáo Trương Văn H từ 08 tháng đến 10 tháng tù. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu sung công 01 (một) xe Romooc tự chế của các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Vào khoảng 16 giờ ngày 27/6/2021, các bị cáo Trương Văn T và Trương Văn H đã có hành vi trộm cắp 01 thanh sắt dài 6,5m, nặng 73 kg của Công ty Cổ phần xây dựng Cao Su, trị giá 511.000 đồng và 01 hệ thống máy bơm gồm 01 động cơ Diesel có gắn 01 đầu bơm dùng để xịt thuốc của anh Đoàn Hữu T, trị giá 3.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt là 3.511.000 đồng. Như vậy, hành vi của các bị cáo Trương Văn T và Trương Văn H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi của các bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo T là người rủ bị cáo H thực hiện hành vi trộm cắp, nên hình phạt áp dụng đối với bị cáo T cao hơn bị cáo H.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự được xem xét để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về trách nhiê m dân sự: Các bị hại đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Chị Nguyễn Thị Bích P đã tự nguyện nộp lại tài sản mua của bị cáo Trương Văn H và không có yêu cầu gì về dân sự.

[7] Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[8] Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trương Văn T và bị cáo Trương Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trương Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 6 năm 2021.

Xử phạt bị cáo Trương Văn H 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 6 năm 2021.

2. Về xử lý vật chứng Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe Romooc tự chế. (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc theo Quyết định chuyển vật chứng số 86/QĐ-VKSXL ngày 14/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc.)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng á n phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trương Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trương Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 147/2021/HS-ST

Số hiệu:147/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;