Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM- TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 138/2021/HS-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 10 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 174/2021/TLST - HS ngày 29 tháng 07 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2021/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 09 năm 2021 và Thông báo thời gian mở lại phiên tòa số 03/TB-TA ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Quốc C, sinh năm 1981 tại Đồng Nai. Giới tính Nam. Nơi đăng ký HKTT và cư trú tại: ấp NP, xã HN, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Con ông Phạm Văn V và bà Phan Thị Đ. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án:

- Ngày 22/9/1999 bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 20 tháng tù về tội “ Cướp tài sản công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/01/2001.

- Ngày 07/01/2003 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/9/2003.

- Ngày 28/01/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản” và 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tổng hợp hình phạt chung là 05 năm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/02/2009.

- Ngày 04/12/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 16/03/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/10/2019.

Tiền sự: Không có.

Hiện đang bị giam giữ để điều tra về hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Họ và tên: Phạm Tín N (Tên gọi khác: B), sinh năm 1989 tại Đồng Nai.

Giới tính Nam. Nơi đăng ký HKTT và cư trú tại: ấp NP, xã HN, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông Phạm Sơn P và bà Bùi Thị Kim T. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 04/9/2008 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/02/2009. Chưa chấp hành phần án phí 50.000 đồng.

Tiền sự: Không có.

Hiện đang bị giam giữ để điều tra về hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

3. Họ và tên: Trần T, sinh ngày 21/4/2003 tại Đồng Nai. Giới tính Nam.

Nơi đăng ký HKTT và cư trú tại: ấp Thái Hòa, xã HN, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Con ông Trần H và bà Nguyễn Thi Kim L. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án; Tiền sự: Không có.

Hiện đang bị giam giữ để điều tra về hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

4. Họ và tên: Nguyễn Duy T, sinh năm 1991 tại Đồng Nai. Giới tính Nam.

Nơi đăng ký HKTT và cư trú tại: ấp TT, xã BS, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 06/12. Con ông Nguyễn Văn Đ (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Thu L. Có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1995 và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, Tiền sự: Không có.

Hiện đang bị giam giữ để điều tra về hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

5. Họ và tên: Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1979 tại Hà Nội. Giới tính Nam.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn DĐ, xã DX, huyện GL, Thành phố Hà Nội. Cư trú tại: Ấp TH, xã HN, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 10/12. Con ông Nguyễn Quang L và bà Dương Thị P. Có vợ là Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1984 và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2019.

Tiền án, Tiền sự: Không có.

Hiện đang bị giam giữ để điều tra về hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị hại:

+ Anh Lê Minh Q, sinh năm 1963. Cư trú tại: Nhà máy gạch Tuynel 1- Cụm VLXD xã Hố Nai 3, ấp TH, xã HN, huyện TB, tỉnh Đồng Nai.

+ Anh Bùi Trung K, sinh năm 1991. Cư trú tại: ấp NP, xã HN, huyện TB, tỉnh Đồng Nai.

( Các bị cáo có mặt, bị hại vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 05 giờ ngày 22/02/2021, Công an huyện Trảng Bom tiến hành kiểm tra hành chính nhà của Trần T làm chủ ở số 51, tổ 22, ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai phát hiện thu giữ: 01cái kích cá sấu đã qua sử dụng và 02 cái súng tháo bù lông ốc xe ô tô đã qua sử dụng. Đồng thời vào lúc 08 giờ, ngày 22/02/2021, Công an huyện Trảng Bom tiến hành kiểm tra hành chính nơi ở của Phạm Tín N (nhà thuê) thuộc tổ 20 ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai phát hiện thu giữ: 01 cái máy giặt nhãn hiệu Sanyo đã qua sử dụng; 01 cái tivi nhãn hiệu samsung loại 21 inch đã qua sử dụng; 01 cái âm ly đã qua sử dụng; 02 cái loa thùng đã qua sử dụng; 01 cái bếp hồng ngoại; 02 bộ mâm xe ô tô loại lớn đã qua sử dụng và 01 cái máy cắt sắt cầm tay loại nhỏ đã qua sử dụng và 01 xe mô tô biển số 60L5-6789 và 01 xe mô tô không gắn biển số có gắn theo rơ móoc sắt.

Quá trình xác minh điều tra xác định Phạm Quốc C, Phạm Tín N, Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ và Trần T là bạn bè và là các đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp. T khoảng tháng 12/2020, Phạm Quốc C cùng đồng bọn đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 02 giờ ngày 15/02/2021, C đi bộ đến nơi N ở tại tổ 20 ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom mượn 01 xe mô tô hiệu Jupiter (không rõ biển số) của Mập (không rõ lai lịch) đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp, khi đến khu dãy nhà trọ của Công ty gạch Tuynel Tiền Phong I trong Cụm công nghiệp vật liệu xây dựng thuộc ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom có 03 phòng trọ đều khóa cửa ngoài, không có người trông coi. C đi về nhà N lấy một cái kìm, mỏ lết sắt rồi quay lại bẻ chốt sắt mở cửa phòng trọ thứ 3 của anh Lê Minh Q (là bảo vệ của công ty gạch Tuynel Tiền Phong I) thì thấy có nhiều tài sản trong phòng trọ nên đã gọi điện thoại cho Mập và T mượn xe môtô không gắn biển số có gắn theo rơ moóc sắt của N để mang đến cùng C trộm cắp tài sản. Mặc dù biết Mập và T mượn xe mô tô có gắn theo rơ moóc sắt để đi trộm cắp tài sản nhưng N vẫn đồng ý cho Mập và T mượn xe. C, Mập và T đã trộm cắp tài sản của anh Lê Minh Q gồm: 01 cái tủ lạnh nhãn hiệu Sanyo đã qua sử dụng; 01 cái máy giặt nhãn hiệu Sanyo đã qua sử dụng; 01 cái tivi nhãn hiệu samsung loại 21 inch đã qua sử dụng; 01 cái đầu đĩa đã qua sử dụng; 01 cái âm ly đã qua sử dụng; 02 cái loa thùng đã qua sử dụng; 01 cái bếp hồng ngoại chưa sử dụng; 01 cái lò vỉ nướng chưa qua sử dụng để lên rơ moóc rồi chở tài sản trộm cắp được về nơi ở của N cất giấu.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 03 giờ ngày 22/02/2021, khi đang ở cùng N, C lấy 01 xe mô tô hiệu Wave biển số 60L5-6789 điều khiển đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến cửa hàng gara sửa xe Thanh Quang tại số 851 quốc lộ 1, ấp Ngũ Phúc, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom thấy kiốt của anh Bùi Trung K khóa cửa ngoài, không có người trông coi nên C đi về nơi ở của N lấy một cái kìm cộng lực sắt màu đen quay lại cắt ổ khóa mở cửa kiốt của anh Bùi Trung K thì thấy có nhiều tài sản nên đã gọi điện thoại cho Th và Đạt mượn xe mô tô không gắn biển số gắn theo rơ moóc sắt của N đến cùng C trộm cắp tài sản. Mặc dù biết C và Th mượn xe mô tô đi trộm cắp tài sản nhưng N vẫn đồng ý cho mượn. C, Th và Đạt đã trộm cắp tài sản của anh Bùi Trung K gồm: 02 bộ mâm xe ô tô loại lớn, 01 cái máy cắt sắt cầm tay đã qua sử dụng. Sau đó, Th và Đạt điều khiển xe mô tô gắn theo rơ moóc sắt chở tài sản trộm cắp được về nơi ở của N cất giấu.

Sau khi thực hiện xong vụ trộm cắp tài sản thứ hai thì C ở lại tiếp tục trộm cắp 01 cái kích cá sấu và 02 cái súng tháo bù lông ốc xe ô tô mang ra cất giấu tại bãi đất trống cách kiốt khoảng 50m rồi điều khiển xe máy đến nhà T rủ T quay lại để lấy tài sản mới trộm cắp được mang về nhà T cất giấu.

Theo Bản kết luận định giá tài sản ngày 20/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom kết luận:

01 cái kích cá sấu đã qua sử dụng trị giá 8.160.000 đồng;

02 cái súng tháo bù lông ốc xe ô tô đã qua sử dụng trị giá 15.980.000 đồng 01 cái máy cầm tay loại nhỏ đã qua sử dụng trị giá 13.600.000 đồng, 02 bộ mâm xe ô tô loại lớn đã qua sử dụng trị giá 2.890.000 đồng Tổng trị giá tài sản cần định giá là 40.630.000 đồng;

Theo Bản kết luận định giá tài sản ngày 07/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom kết luận:

01 cái tủ lạnh nhãn hiệu Sanyo; 01 cái máy giặt nhãn hiệu Sanyo; 01 cái tivi nhãn hiệu Samsung loại 21 inch; 01 cái đầu đĩa; 01 cái âm ly; 02 cái loa thùng đều đã qua sử dụng; 01 cái bếp hồng ngoại; 01 cái lò vỉ nướng chưa qua sử dụng có tổng trị giá là 16.461.400 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 179/CT/VKS-TB ngày 19 tháng 07 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Phạm Quốc C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Phạm Tín N, Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Duy T và Trần T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Đi với đối tượng tên Mập là bạn của N do không rõ nhân thân, lai lịch, quá trình điều tra chưa xác minh làm rõ được. Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

+ Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc C, Phạm Tín N, Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Duy T và Trần T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

+ Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Tín N bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phạm Quốc C và Trần T bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt:

Bị cáo Phạm Quốc C t 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Bị cáo Phạm Tín N t 18 tháng đến 24 tháng tù.

Bị cáo Trần T t 12 tháng đến 18 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ mỗi bị cáo t 09 tháng đến 12 tháng tù.

- Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- Xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 máy giặt nhãn hiệu Sanyo; 01 ti vi nhãn hiệu Samsung loại 21 inch; 01 âm li; 02 loa thùng; 01 bếp hồng ngoại. Qua điều tra xác định là tài sản của anh Lê Minh Q nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định trả lại tài sản cho anh Q.

+ Đối với 01 kích cá sấu; 02 súng tháo bù lông ốc xe ô tô; 02 mâm xe ô tô loại lớn; 01 máy cắt cầm tay. Qua điều tra xác định là tài sản của anh Bùi Trung K nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định trả lại tài sản cho anh K.

+ Đối với 01 xe mô tô biển số 60L5-6789; 01 xe mô tô không gắn biển số kéo theo rơ moóc sắt là phương tiện dùng vào việc phạm tội và 01 điện thoại hiệu iphone 5 do bị cáo Th sử dụng để liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị Tòa án tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 cái kìm mỏ lết sắt và 01 cái kìm cộng lực sắt màu đen, 01 điện thoại đi động hiệu Nokia là công cụ mà bị cáo C thực hiện hành vi phạm tội, trong quá trình điều tra bị cáo không nhớ cất, làm rơi mất ở đâu nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

+ Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Các bị cáo th a nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, không có oan sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng số 179/CT/VKS-TB ngày 19 tháng 07 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; biên bản kiểm tra; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận:

Vào khoảng tháng 2/2021 tại xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Phạm Quốc C cùng đồng phạm đã thực hiện các vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 15/2/2021, Phạm Quốc C, Trần T, Phạm Tín N và Mập (không biết rõ tên thật, địa chỉ) đã lén lút trộm cắp của anh Lê Minh Q các tài sản gồm: 01 cái tủ lạnh nhãn hiệu Sanyo; 01 cái máy giặt nhãn hiệu Sanyo; 01 cái tivi nhãn hiệu Samsung loại 2l in; 01 cái đầu đĩa; 01 cái âm ly; 02 cái loa thùng; 01 cái bếp hồng ngoại; 01 cái lò vỉ nướng với tổng giá trị là: 16.461.000 đồng ( Mười sáu triệu, bốn trăm, sáu mươi mốt ngàn đồng).

Vụ thứ hai: Ngày 22/2/2021, Phạm Quốc C, Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Duy T, Phạm Tín N đã lén lút trộm cắp của anh Bùi Trung K tài sản gồm: 02 bộ mâm xe ô tô loại lớn và 01 cái máy cắt sắt cầm tay có giá trị là 16.490.000 đồng ( Mười sáu triệu, bốn trăm chín mươi ngàn đồng).

Sau khi thực hiện xong vụ trộm cắp tài sản thứ hai, bị cáo Phạm Quốc C cùng với Trần T đã trộm cắp của anh Bùi Trung K: 01 cái kích cá sấu và 02 cái súng tháo bù lông ốc xe ô tô trị giá 24.140.000 đồng ( Hai mươi bốn triệu, một trăm bốn mươi ngàn đồng). Số tài sản trộm cắp lần này C và T mang về nhà T cất giấu nên N, Đạt, Th không biết.

Như vậy, Phạm Quốc C tham gia tất cả 03 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị là 57.091.000 đồng. Phạm Tín N là người giúp sức cho C mượn xe mô tô gắn theo rơ moóc sắt để thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản có giá trị là 32.951.000 đồng. Trần T tham gia 02 vụ trộm cắp tài sản có giá trị là 40.601.000 đồng.

Nguyễn Tiến Đ và Nguyễn Duy T tham gia 01 vụ trộm cắp tài sản có giá trị là 16.490.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Phạm Quốc C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo Phạm Tín N, Trần T, Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của anh Lê Minh Q, anh Bùi Trung K được pháp luật công nhận và bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử phạt các bị cáo một mức án đủ nghiêm nhằm cải tạo và giáo dục các bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời còn răn đe và phòng ng a chung.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của t ng bị cáo thì thấy: Trong vụ án này, tuy các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng chỉ ở mức đồng phạm giản đơn vì không có sự phân công, bàn bạc.

Bị cáo Phạm Quốc C đã có 04 tiền án về các tội “Cướp tài sản công dân”, “Cướp giật tài sản”, “Trộm cắp tài sản”, “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản, bị cáo Phạm Quốc C phải chịu trách nhiệm hình sự với 03 tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp”, “Chiếm đoạt tài sản trị giá t 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” và “Tài phạm nguy hiểm”. Mặt khác, bị cáo còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần áp dụng mức án cao nhất so với các bị cáo còn lại.

Bị cáo Phạm Tín N có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, không lấy đó là bài học cảnh tỉnh, rèn luyện bản thân mà lại giúp sức cho bị cáo C thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản nên cần có mức án cao thứ hai. Bị cáo Trần T thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản có giá trị 40.601.000 đồng nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng các Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ chỉ tham gia thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản, có trị giá bằng nhau nên cần áp dụng mức hình phạt bằng nhau và nhẹ hơn các bị cáo khác.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; riêng các bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ được áp dụng thêm tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Quốc C và Trần T bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phạm Tín N bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về biện pháp tư pháp: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 máy giặt nhãn hiệu Sanyo; 01 ti vi nhãn hiệu Samsung loại 21 in; 01 âm li; 02 loa thùng; 01 bếp hồng ngoại và 01 kích cá sấu; 02 súng tháo bù lông ốc xe ô tô; 02 mâm xe ô tô loại lớn; 01 máy cắt cầm tay. Qua điều tra xác định là tài sản của anh Lê Minh Q, anh Bùi Trung K nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định trả lại tài sản cho chủ sở hữu là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Đối với 01 cái kìm mỏ lết sắt và 01 cái kìm cộng lực sắt màu đen, 01 điện thoại đi động hiệu Nokia là công cụ mà bị cáo C thực hiện hành vi phạm tội, trong quá trình điều tra bị cáo không nhớ cất, làm rơi mất ở đâu nên Cơ quan điều tra không thu hồi được không có căn cứ để xử lý.

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 xe mô tô biển số 60L5- 6789; 01 xe mô tô không gắn biển số kéo theo rơ moóc sắt và 01 điện thoại hiệu iphone 5 là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội.

[8] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc C, Phạm Tín N, Trần T, Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Phạm Quốc C 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Phạm Tín N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 91, Điều 101; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trần T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ mỗi bị cáo 01 (một) năm tù;

Thời hạn tù của các bị cáo tính t ngày các bị cáo đi chấp hành án của bản án này.

2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 xe mô tô biển số 60L5- 6789; 01 xe mô tô không gắn biển số kéo theo rơ moóc sắt và 01 điện thoại di động hiệu iphone 5.

(Vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/07/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Phạm Quốc C, Phạm Tín N, Trần T, Nguyễn Duy T, Nguyễn Tiến Đ mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, người có mặt tính t ngày tuyên án, người vắng mặt tính t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2021/HS-ST

Số hiệu:138/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;