Bản án về tội trộm cắp tài sản số 134/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 134/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 146/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 241/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYN VĂN S; sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: đường G, Phường N, quận P,Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H (chết) và bà: Phạm Thị Trường A; vợ, con: Chưa có; tiền án: Bản án số 245/2014/HSST ngày 13/8/2014, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bản án số 52/2019/HSST ngày 24/5/2019, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 19/4/2021 (Có mặt) - Bị hại:

1/Lê Thị Ngân H – sinh năm 2000; địa chỉ cư trú: đườn N, phường Đ, quận K, Thành phố Hải Phòng (Vắng mặt)

2/Trần Ngọc M – sinh năm 2000; địa chỉ cư trú : KV11, phường H, Thành phố Q, tỉnh Bình Định (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ 00 phút ngày 19/4/2021, sau khi chơi điện tử tại tiệm Game trên đường Bạch Đằng, Phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn S đi bộ đến công viên Gia Định, quận Gò Vấp tìm chỗ ngủ. Khi đi ngang qua nhà số 74/1/4 Bạch Đằng, Phường 2, quận Tân Bình, S nhìn thấy cửa ban công phòng số 5 lầu 3 của căn nhà không đóng, tắt đèn nên nảy sinh ý định đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, sử dụng ma túy và chơi game.

Nguyễn Văn S trèo lên cửa cổng nhà bên cạnh số 74/1/8 để bám leo qua ban công lầu 2 của căn nhà số 74/1/6, trèo lên bệ đỡ máy lạnh, S tiếp tục bước lên mái che cửa sổ phòng của lầu 2 nhà số 74/1/4 rồi trèo lên ban công lầu 3 đi vào phòng số 5. Khi vào bên trong, S nhìn thấy phòng số 5 có thêm 01 cửa hướng vào cầu thang đang đóng, ổ khóa cửa có cắm sẵn một chìa gắn chung với 03 chìa khóa khác trong 01 khoen, S mở cửa phòng cùng lúc rút chùm chìa khóa cầm trên tay rồi đi xuống tầng trệt dùng chùm chìa khóa trong đó có 02 chìa mở được cửa nhà và cửa cổng, S mở sẵn mục đích để bỏ trốn sau khi chiếm đoạt được tài sản. Quan sát phát hiện tầng trệt có nhiều xe máy, S lấy chùm chìa khóa trong đó có 01 chìa khóa xe cắm vào từng xe kiểm tra, khi kiểm tra đến xe gắn máy biển số 15AA-205.21 thì mở được công tắc, S tiếp tục gỡ chìa khóa xe ra khỏi chùm, mở công tắc, đẩy xe máy đến dừng đỗ gần cửa nhà hướng đầu xe ra đường. S cầm ổ khóa lên lầu 1 móc vào khoen cửa phòng số 1 nhằm ngăn chặn có người truy đuổi nếu bị phát hiện. S đi lên lầu 3 phòng số 5 gỡ chìa khóa cửa gắn lại vào ổ khóa, cất 02 chìa khóa còn lại vào túi quần phía sau bên trái rồi đi lên gác lửng tìm tài sản, lúc này S nhìn thấy chị Lê Thị Ngân H và chị Trần Ngọc M đang nằm ngủ, trên sàn bên cạnh chân trái của chị M có để 01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 đang sạc pin, S dùng tay trái tháo dây sạc, dùng tay phải lấy chiếc điện thoại cất giấu vào túi quần phía trước bên phải rồi đến bàn gỗ cạnh chị M dùng tay phải lấy trộm chiếc laptop hiệu Asus và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A92 đang đặt trên chiếc laptop. Chị H nghe tiếng động thức dậy phát hiện thấy có người lạ nên tri hô, chị M và những người thuê trọ trong nhà thức dậy cùng truy đuổi, S bỏ chạy xuống tầng trệt, ngồi lên xe gắn máy biển số 15AA-205.21 khởi động điều khiển xe bỏ chạy khoảng 03 mét thì làm rơi chiếc laptop và chiếc điện thoại, S dừng xe nhặt được tài sản thì bị anh Nguyễn Quốc V nắm cổ áo phía sau kéo mạnh làm ngã xe và tiếp tục làm rơi chiếc laptop và chiếc điện thoại vừa nhặt lại xuống đường. S bỏ lại xe chạy bộ anh Việt truy đuổi đến trước nhà số 74/6A Bạch Đằng cùng người dân hỗ trợ bắt giữ được S giao cho Công an Phường 2, quận Tân Bình.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn S khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nêu trên.

Vật chứng: Thu của S 01 chiếc áo dài tay sọc caro màu trắng đen, 01 chiếc quần jean dài màu xanh dương;

- 01 chìa khóa phòng số 5, 01 chìa khóa cửa nhà, 01 chìa khóa cửa cổng nhà số 74/1/4 Bạch Đằng, Phường 2, quận Tân Bình thu giữ trong túi quần phía sau bên trái S đang mặc là tài sản của chị H, Công an Phường 2, quận Tân Bình giao trả cho chị H.

Tài sản bị chiếm đoạt: Căn cứ Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 104/HĐĐGTS-TTHS ngày 03/6/2021 của Ủy ban Nhân dân quận Tân Bình gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 - 64GB màu vàng, hàng chính hãng, đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động tốt, trị giá 5.700.000 đồng;

- 01 xe gắn máy hai bánh hiệu VIET THAI GREENS biển số 15AA-205.21 màu đen, xe đã qua sử dụng, máy còn nguyên thủy, chất lượng máy còn lại khoảng 95%, trị giá 15.000.000 đồng;

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo A92 - 128GB màu đen, hàng chính hãng, đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động tốt, trị giá 4.400.000 đồng;

- 01 máy tính xách tay hiệu Asus S410U, hàng chính hãng, đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động tốt, trị giá 9.500.000 đồng;

Tng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 34.600.000 đồng.

Bị hại Lê Thị Ngân H nhận lại tài sản là 01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 và 01 xe gắn máy biển số 15AA-205.21 và 02 chìa khóa. Bị hại Trần Ngọc M nhận lại tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 01 laptop hiệu Asus S410U.

Tại bản cáo trạng số 142/CT-VKS ngày 08 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thị Ngân H, Trần Ngọc M đã nhận lại tài sản, không có ý kiến, yêu cầu gì.

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, không bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Văn S, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Bị cáo có hành vi lén lút vào nhà 74/1/4 Bạch Đằng, Phường 2, quận Tân Bình chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 - 64GB màu vàng trị giá 5.700.000 đồng và 01 xe gắn máy hai bánh hiệu VIET THAI GREENS biển số 15AA-205.21 màu đen, trị giá 15.000.000 đồng của chị Lê Thị Ngân H; chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Oppo A92 - 128GB màu đen trị giá 4.400.000 đồng và 01 máy tính xách tay hiệu Asus S410U trị giá 9.500.000 đồng của chị Trần Thị M. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 34.600.000 đồng, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã tái phạm về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, tư lợi muốn có tiền tiêu xài, sử dụng ma túy, chơi game mà bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, táo bạo, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ ma túy.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có ý kiến yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tang vật vụ án: 01 chiếc áo dài tay sọc caro màu trắng đen, 01 chiếc quần jean dài màu xanh dương, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : NGUYỄN VĂN S 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: 19/4/2021

[2] Tịch thu tiêu huỷ : 01 chiếc áo dài tay sọc caro màu trắng đen, 01 chiếc quần jean dài màu xanh dương;

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 127/PNK ngày 27/8/2021 của Đội Cảnh sát Thi hành án Hình sự và Hỗ trợ tư pháp Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

358
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 134/2021/HS-ST

Số hiệu:134/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;