Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 13/2021/HSST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2021/TLST- HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Pịt Văn U; tên gọi khác: Không; sinh ngày 18/02/1997, tại xã N, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản Đ, xã N, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Khơ Mú; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Pịt Phò K (đã chết) và bà Pịt Mẹ K; có vợ là: Chích Thị L; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/10/2021 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Công Thiết-Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị hại: Chị Lương Thị A; sinh ngày 03/4/2008; trú tại: Bản T, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; Có mặt.

Đại diện hợp pháp cho bị hại Lương Thị A: Ông Lương Phò U (Bố đẻ); sinh năm 1972; trú tại: Bản T, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Chích Văn S; sinh năm 1984; trú tại: Bản L, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Chích Văn Y; sinh năm 1994; trú tại: Bản L, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

2. Anh Chích Văn B; sinh năm 1999; trú tại: Bản L, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

3. Anh Cụt Phò T; sinh năm 1986; trú tại: Bản L, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 04/6/2021, Pịt Văn U và Chích Văn B, sinh năm 1999, Cụt Phò T, sinh năm 1986, đều trú tại bản L, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An rủ nhau sang nhà ông Lương Phò U, sinh năm 1972, trú tại bản T, xã B, huyện K để chơi với con gái ông U tên là Lương Thị A, sinh năm 2008. Pịt Văn U, Chích Văn B, Cụt Phò T và chị Lương Thị A trải chiếu ngồi nói chuyện dưới sàn nhà ông U. Quá trình ngồi nói chuyện, chị A có cất 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem dưới chiếu trải ở sàn nhà. Ngồi nói chuyện được một lúc thì chị A lên ngồi trên giường, còn U, B, T rủ nhau sang nhà Chích Phò T, sinh năm 1982, trú cùng bản T, xã B, huyện K chơi. Đến khoảng 00 giờ, ngày 05/6/2021, Chích Văn B rủ Pịt Văn U, Cụt Phò T quay lại nhà ông Lương Phò U chơi. Tại đây, U, B, T ngồi uống rượu với ông U và Chích Văn Y, sinh năm 1994, trú tại bản L, xã B, huyện K. Uống rượu đến khoảng 02 giờ cùng ngày thì U, B, T nghỉ và về trước. Trước lúc ra về, Pịt Văn U thấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem mà chị A cất dưới chiếu trước đó nên nảy sinh ý định chiếm đoạt, lợi dụng sơ hở không có ai để ý, U đã lấy trộm chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi đi về. Ngày 07/6/2021, Pịt Văn U đang ở nhà bố vợ là ông Chích Xuân T, sinh năm 1958, trú tại bản L, xã B, huyện K thì có anh Chích Văn S, sinh năm 1984, trú cùng bản L, xã B đến chơi nên U đã bán chiếc điện thoại cho anh S với giá 650.000 đồng (Sáu trăm năm mươi nghìn). Đến ngày 10/9/2021, chị Lương Thị A và gia đình đến Công an xã B trình báo về vụ việc trên. Sau khi tiếp nhận đơn tố giác của chị A và gia đình, Công an xã B đã tiến hành xác minh và phát hiện Pịt Văn U là người có dấu hiệu thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình làm việc, Pịt Văn U đã thừa nhận và khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 12/9/2021, Chích Văn S đã tự nguyện giao nộp cho Công an xã B 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem, số IMEI 1: 357729090337620, IMEI 2: 357729090355887, đã qua sử dụng.

Ngày 15/9/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã có yêu cầu định giá tài sản số 09, đề nghị Hội đồng định giá tài sản huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An định giá tài sản là: 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem, số IMEI 1: 357729090337620, IMEI 2: 357729090355887, đã qua sử dụng.

Kết luận định giá tài sản số 10/KL-ĐGTS ngày 29/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Kỳ Sơn, kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem, số IMEI 1: 357729090337620, IMEI 2: 357729090355887 có giá là: 2.500.000 đồng (Hai triệu, năm trăm nghìn).

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, Pịt Văn U đã thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Mục đích lấy trộm chiếc điện thoại là để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Về vật chứng vụ án: 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem, đã qua sử dụng đã đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu là chị Lương Thị A, sinh năm 2008, trú tại bản T, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lương Thị A đã nhận lại tài sản bị mất là 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem và gia đình Pịt Văn U đã tự nguyện bồi thường số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn) cho phía bị hại nên chị Lương Thị A không có yêu cầu gì.

Đối với Chích Văn S, sinh năm 1984, trú tại bản L, xã B là người đã mua chiếc điện thoại do Pịt Văn U trộm cắp mà có, anh S đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra và không yêu cầu gì về mặt dân sự.

Cáo trạng số 122/CT-VKS-KS ngày 11/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố để xét xử bị cáo Pịt Văn U về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Pịt Văn U phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Pịt Văn U từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi bốn) tháng; về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên miễn xét. Buộc bị cáo phải chịu tiền án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị hại Lương Thị A và đại diện hợp pháp trình bày: Quá trình điều tra đã nhận lại được tài sản và gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn), bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chích Văn S vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã tự nguyện giao nộp lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Về tội danh đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Về hình phạt: Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Pịt Văn U mức án thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Pịt Văn U đồng ý với nội dung Cáo trạng và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, không tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng nhưng quá trình điều tra đã có lời khai đầy đủ. Do đó sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo Pịt Văn U đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 02 giờ, ngày 05/6/2021, tại nhà ông Lương Phò U, sinh năm 1972, trú tại bản T, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An, Pịt Văn U đã lợi dụng sở hở trong lúc chị Lương Thị A và gia đình không để ý đã lấy trộm 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem, số IMEI 1: 357729090337620, IMEI 2: 357729090355887 có giá là: 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn), nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tuổi đời còn trẻ, là người có đủ năng lực để nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì lười lao động lại muốn có tiền để tiêu xài nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét các tình tiết giảm nhẹ thấy rằng bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố và xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại cho phía bị hại, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương cũng đủ nghiêm và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân là có căn cứ, cần chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Pịt Văn U lao động tự do, không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 02/10/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã trả lại 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Wiko view max, màu đen kem, số IMEI 1: 357729090337620, IMEI 2: 357729090355887, đã qua sử dụng cho phía bị hại, chị Lương Thị A và đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Lương Phò U không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chích Văn S không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và tội danh:

Căn cứ vào khoản 1 điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Pịt Văn U phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Pịt Văn U 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/11/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh Nghệ An giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Pịt Văn U phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/11/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HSST

Số hiệu:13/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;