Bản án về tội trộm cắp tài sản số 124/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 124/2022/HS-ST NGÀY 05/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 7 năm 2022 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Lục Vũ Phương T, sinh năm: 1998, tại: Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: ấp T, xã K, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: nhân viên bưu cục; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lục Văn V và bà Cam Nguyễn Kim T; chưa có vợ con; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày: 25/01/2022; (Có mặt).

Bị hại: Bà Trương Thị Lan A, sinh năm 1997; địa chỉ: 618/50/1 đường T, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn T, sinh năm 1991; HKTT: 46 đường H, Phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: 212/1 đường A, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu năm 2021, Lục Vũ Phương T cùng một số người khác thuê nhà nguyên căn tại địa chỉ: 618/50/1 đường Q, Phường M, quận G. Đến khoảng tháng 3/2021 thì có bà Trương Thị Lan A cùng đến ở chung. Quá trình cùng cư trú, T biết bà Lan A có sử dụng một chiếc xe gắn máy hiệu Vespa, biển số 59E2-X. Tháng 12/2021, T phát hiện bà Lan A có 01 sọt đựng đồ cá nhân để tại lan can lầu 03, bên trong có 01 chìa khóa của xe gắn máy nêu trên. Do đó, T nảy sinh ý định lấy trộm xe biển số 59E2-X làm phương tiện về quê nên lấy trộm chìa khóa xe và cất giấu. Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24/01/2022, T và bà Lan A ở tại phòng thuê, lúc này không có ai khác nên T lợi dụng lúc bà Lan A sơ hở đang ở trên lầu lén lút đẩy xe ra ngoài rồi sử dụng chìa khóa đã lấy trộm trước đó mở ổ khóa điện của xe và chạy xe tẩu thoát. Sau đó, T đem xe đển gửi tại bãi xe thuộc Chung cư T, Phường C, Quận B rồi quay về phòng thuê. Sau khi phát hiện bị mất trộm xe, bà Lan A có nghi ngờ T là người lấy trộm xe nên liên lạc với T để hỏi và yêu cầu T quay về phòng thuê.

Khi T đến phòng thuê thì bà Lan A đưa T đến Công an Phường M, quận G, Lục Vũ Phương T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nêu trên. Công an Phường M đã tiến hành đưa T đi xác định địa điểm nơi cất giấu xe và thu hồi vật chứng là 01 chiếc xe biển số 59E2-X. Đồng thời, đã tạm giữ 01 chìa khóa xe gắn máy Vespa và 01 vé giữ xe.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp, Lục Vũ Phương T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 01 xe gắn máy hiệu Vespa, biển số: 59E2 – X. Kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS ngày 28/01/2022 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự cấp quận Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án có giá trị 62.033.333đ (Sáu mươi hai triệu không trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi ba đồng). Qua xác minh do ông Trần Văn T đứng tên chủ sở hữu. Ông T cho biết có giao chiếc xe trên cho bà Lan A sử dụng thì bị mất trộm như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho ông Trần Văn T. Ông Trần Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không có yêu cầu gì.

Về bồi thường dân sự: Do chủ sở hữu xe là ông Trần Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên bà Lan A cũng không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì và không có khiếu nại gì khác.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKS, ngày 26/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Lục Vũ Phương T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Lục Vũ Phương T từ 02 năm đến 02 năm 6 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Lục Vũ Phương T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Lục Vũ Phương T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Lợi dụng sự sơ hở của bị hại, bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Bị cáo chiếm đoạt tài sản trị giá trên 50.000.000 đồng là tình tiết định khung được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, bị cáo phạm tội lần đầu, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại bà Trương Thị Lan A vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện do chủ sở hữu xe là ông Trần Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên bà Lan A cũng không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì, không còn thắc mắc khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe gắn máy hiệu Vespa, biển số: 59E2 – X. Qua xác minh do ông Trần Văn T đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho ông Trần Văn T. Hội đồng xét xử nhận thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

[8] Về án phí: Bị cáo Lục Vũ Phương T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lục Vũ Phương T phạm tội “Trộm cắp Tài sản”; Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Lục Vũ Phương T 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/01/2022.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 124/2022/HS-ST

Số hiệu:124/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;