TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 123/2020/HSST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 25 tháng11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 120/2020/HSST ngày 13/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2020/QĐXXST-HS ngày 11/11/2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu T (tên gọi khác: T G); sinh năm 1999; tại tỉnh Bình Thuận; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn V, xã V T, huyện T, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph và bà Ngô Thị Thanh Th; vợ, con: chưa có; tiền án: 01 tiền án, ngày 16/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số: 95/2018/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2019; (chưa được xóa án tích); tiền sự: không; bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa
Người bị hại: Ông Lê Chí Ch, sinh năm 1988; địa chỉ: khu phố 9, thị trấn L.H, huyện T, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).
Người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan: Bà Đặng Thị Kim Ng, sinh năm 2001;
địa chỉ: thôn V, xã V.T, huyện T, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt)
Nhân chứng:
- Ông Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 22/2/2005; địa chỉ: khu phố 5, thị trấn L.H, huyện T, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 4 năm 2020 Nguyễn Hữu T cùng với Nguyễn Gia Kh (sinh ngày 22/02/2005) và một người tên Hiếu (không rõ nhân thân, lai lịch) đến ở chung phòng trọ cạnh quán Karaoke Zalo của Lê Chí Ch ở thôn V, xã V.T, huyện T. Quá trình ở chung với nhau, do không có tiền tiêu xài nên T rủ Hiếu sang quán Karaoke Zalo trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì Hiếu đồng ý. Khoảng 10 giờ ngày 05/4/2020 T và Hiếu đột nhập vào kho hàng của quán Zalo lấy trộm 03 thùng bia Tiger loại 24 lon rồi đem đến tiệm tạp hóa Gái Được ở thôn V – xã V. T gạ bán. Tại đây, Hiếu mang 03 thùng bia đã trộm cắp vào tiệm tạp hóa gặp Đặng Thị Kim Ng, Hiếu nói bia của nhà mua uống không hết đem bán lại, Ng không biết bia do T và Hiếu trộm cắp có được nên đồng ý mua với giá 900.000 đồng (300.000 đồng/01 thùng).
Đến 07 giờ 30 phút ngày 06/4/2020 T và Hiếu tiếp tục đột nhập quán Zalo lấy trộm 02 thùng bia Tiger (loại 24 lon) và 01 thùng bia Saigon (loại 24 lon). Sau đó Hiếu điều khiển xe mô tô của Hiếu chở T ôm bia đến tiệm tạp hóa Gái Được gạ bán. T và Hiếu cùng mang 03 thùng bia vào gặp Trần Thị Kim Ng nói bia của nhà uống không hết nên bán, Ng đồng ý mua và trả cho T và Hiếu số tiền 800.000 đồng (300.000 đồng/ 01 thùng bia Tiger, 200.000 đồng/01 thùng bia Saigon). Toàn bộ số tiền 02 lần bán bi trộm cắp có được đều sử dụng để mua thức ăn và tiêu xài chung giữa T, Hiếu và Kh. T và Hiếu kể cho Kh nghe việc trộm cắp bia ở quán Zalo đi bán rồi rủ Kh cùng đi trộm cắp thì Kh đồng ý.
Đến 20 giờ ngày 06/4/2020 T, Hiếu và Kh tiếp tục rủ nhau sang quán Zalo để trộm cắp bia. Hiếu và Kh đi sang quán Zalo, Kh đứng ở ngoài cảnh giới còn Hiếu đi vào trong kho hàng lấy 03 thùng bia Saigon (loại 24 lon) đem ra ngoài cất giấu chờ đem đi bán. Sáng ngày 07/4/2020 ông Lê Chí Ch kiểm tra kho hàng phát hiện bị mất bia nên gọi Nguyễn Hữu T để hỏi, T thừa nhận việc trộm cắp bia của ông Ch và đem trả lại 03 thùng bia Saigon (loại 24lon), số bia còn lại T hứa đến cuối tháng 4/2020 sẽ trả lại ông Ch. Đến ngày 29/4/2020 không thấy T đem bia đến trả như đã hứa nên ông Ch trình báo đến cơ quan công an.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KL-HĐĐG ngày 11/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Phong, kết luận:
+ 05 thùng bia Tiger loại 24 lon, trị giá: 330.000 đồng/thùng × 05 thùng = 1.650.000 đồng;
+ 04 thùng bia Saigon loại 24 lon, trị giá: 230.000 đồng/thùng × 04 thùng = 920.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản định giá 2.570.000 đồng.
Quá trình điều tra Nguyễn Hữu T đã khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 123/CT-VKS-TP, ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 09 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Trách nhiệm dân sự: công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, buộc bị cáo bồi thường cho Trần Thị Kim Ng số tiền 1.700.000 đồng
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, Kiểm sát viên:
Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp đúng quy định của pháp luật.
[2] Về chứng cứ và hành vi của bị cáo:
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo khẳng định những lời khai của mình trong quá trình điều tra vụ án là hoàn toàn tự nguyện, không bị bức cung, ép cung và bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng, không oan sai. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: vào ngày 05/4/2020 và ngày 06/4/2020 do Nguyễn Hữu T, Nguyễn Gia Kh (sinh ngày: 22/02/2005) và đối tượng tên Hiếu (không rõ nhân thân, lai lịch) lén lút trộm cắp 05 thùng bia Tiger và 04 thùng bia Saigon có tổng giá trị là 2.570.000 đồng của ông Lê Chí Ch đem đi bán được số tiền 1.700.000 đồng chia nhau tiêu xài thì bị phát hiện.
Vì vậy, bản cáo trạng số: 123/CT-VKS-TP, ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) như đã viện dẫn trong cáo trạng là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo Nguyễn Hữu T là công dân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thừa biết hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng với bản tính tham lam, muốn có tiền mà không do sức lao động của mình làm ra, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, bị cáo cùng với Nguyễn Gia Kh (sinh ngày:
22/02/2005) và đối tượng tên Hiếu (không rõ nhân thân, lai lịch) lén lút trộm cắp 05 thùng bia Tiger và 04 thùng bia Sàigon có tổng giá trị là 2.570.000 đồng của ông Lê Chí Ch đem đi bán được số tiền 1.700.000 đồng chia nhau tiêu xài thì bị phát hiện.
Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn Nguyễn Hữu T, Nguyễn Gia Kh và đối tượng tên Hiếu cùng thống nhất ý chí trộm cắp tài sản của ông Lê Chí Ch bán lấy tiền chia nhau tiêu xài nên phải chịu trách nhiệm hình sự chung đối với toàn bộ hành vi và hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, Nguyễn Gia Kh, sinh ngày: 22/02/2005, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; đối tượng tên Hiếu chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên Nguyễn Hữu T phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hành vi và hậu quả đã xảy ra.
Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử bị cáo một mức án nghiêm khắc, nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Nguyễn Hữu T có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Nguyễn Hữu T đã thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên cũng cần xem xét giảm nhẹ khi lượng hình phạt. Tuy nhiên xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có cơ sở, Hội đồng xét xử quyết định giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhưng cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung.
[5] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: không thu giữ nên không xem xét giải quyết.
Việc bồi thường dân sự: Lê Chí Ch đã nhận lại số bia bị trộm cắp, không có yêu cầu bồi thường; Đặng Thị Kim Ng yêu cầu trả lại số tiền 1.700.000 đồng, là tiền mua nhầm tài sản trộm cắp, đến nay T chưa trả lại.
[6] Về đối tượng liên quan: đối với Đặng Thị Kim Ng không biết bia do Nguyễn Hữu T cùng đồng phạm đem đến bán là tài sản do trộm cắp mà có nên không xử lý.
Nguyễn Gia Kh, sinh ngày: 22/02/2005 khi thục hiện hành vi trộm cắp tài sản Kh chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có công văn đề nghị Công an huyện Tuy Phong xử phạt vi phạm hành chính.
Riêng đối tượng tên Hiếu cùng đi trộm cắp tài sản với Nguyễn Hữu T do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của pháp luật.
[8] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ đúng pháp luật nên được chấp nhận toàn bộ.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)
2. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”
3. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Hữu T 09 ( chín ) tháng tù; thời gian tính tù kể từ ngày bắt thi hành án.
4. Về trách nhiệm dân sự: công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; buộc bị cáo Nguyễn Hữu T phải bồi thường cho Đặng Thị Kim Ng số tiền 1.700.000 đồng.
5. Án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 25/11/2020). Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 123/2020/HSST
Số hiệu: | 123/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về