Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 242/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Thế B; sinh ngày: 03/02/1992 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 1048A LG, Phường B, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 231/8C LHP, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế H (chết) và bà Trần Thị T; có vợ Huỳnh Thị Tú C và 04 con (lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 23/01/2019, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 09/2019/HS-ST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/01/2020; đã nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 03/7/2019

Nhân thân: Ngày 19/12/2012, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số: 433/2012/HSST). Chấp hành xong bản án ngày 04/02/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/9/2020. (có mặt)

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm: 1982; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: 260/83F LHP, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 231/15A3 LHP, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 10/9/2020, sau khi đi chơi internet, Nguyễn Thế B đi đến trước nhà của Chị Nguyễn Thị Hồng L (số 231/15A3 LHP, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh), B phát hiện cửa nhà không đóng nên nảy sinh ý định vào nhà tìm kiếm tài sản để chiếm đoạt. Thực hiện ý định, B quan sát thấy nhà không người trông coi nên lén lút đi vào trong nhà tìm kiếm tài sản, tại dưới tầng trệt B không phát hiện tài sản nên tiếp tục đi lên gác thì B nhìn thấy một tủ nhựa màu hồng để ngay chân cầu thang, bên trên có nhiều chai nước hoa. B liền lấy một túi nylon ở gần chiếc tủ và lấy các tài sản bỏ vào túi nylon gồm: 03 (ba) chai nước hoa nhãn hiệu Chanel dạng nước, 01 (một) chai nước hoa nhãn hiệu Chanel dạng sáp.

Sau đó, B tiếp tục mở hộc tủ của chiếc tủ nhựa màu hồng (hộc tủ thứ ba từ trên xuống) lấy 03 (ba) chiếc mắt kính thời trang (gồm 02 (hai) chiếc nhãn hiệu Chanel và 01 (một) chiếc nhãn hiệu Versace). B tiếp tục tìm kiếm tài sản để ở hộc tủ thứ hai từ trên xuống thì phát hiện thêm một chiếc túi nhung màu đỏ, bên trong có chứa nhiều nữ trang, B cho túi nhung vào túi nylon rồi đi xuống tầng trệt, khép cửa nhà và tẩu thoát. B mang số tài sản chiếm đoạt được về nhà số 231/8C LHP, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu.

Khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 10/9/2020, Chị Nguyễn Thị Hồng L về nhà phát hiện mất tài sản, kiểm tra camera phát hiện có người lạ vào nhà nên đến Công an Phường 15, Quận 8 trình báo. Công an kiểm tra xác định đối tượng bị ghi nhận trong camera là Nguyễn Thế B nên Công an phường đã đưa B về trụ sở lấy lời khai, làm rõ sự việc và B khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.

Ngày 10/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 8 thi hành lệnh khám xét nhà số 231/8C LHP, Phường M, Quận T, qua khám xét, Công an phát hiện và thu giữ toàn bộ số tài sản mà B chiếm đoạt của chị L. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã tiến hành định giá xác định giá trị các tài sản bị chiếm đoạt, cụ thể:

+ 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng dài khoảng 45cm: 1,65 chỉ x 4.088.000 đồng/chỉ là 6.745.200 đồng.

+ 03 (ba) chai nước hoa nhãn hiệu Chanel dạng nước có giá trị là 1.080.000 đồng.

+ 01 (một) chai nước hoa nhãn hiệu Chanel dạng sáp bôi có giá trị là 360.000 đồng.

+ 02 (hai) mắt kính thời trang nhãn hiệu Chanel có giá trị là 600.000 đồng.

+ 01 (một) mắt kinh thời trang nhãn hiệu Versace có giá trị là 300.000 đồng.

+ 01 (một) chiếc túi nhung màu đỏ có giá trị là 5.000 đồng.

+ 01 (một) mặt dây chuyền bằng kim loại màu trắng có gắn đá màu trắng; 01 (một) vòng bằng kim loại màu vàng lồng charm màu trắng gắn đá màu trắng; 01 (một) đôi bông tai bằng kim loại màu trắng có gắn đá màu trắng; 02 (hai) nhẫn làm bằng kim loại màu trắng có gắn hột; 02 (hai) vòng bằng kim loại màu trắng có gắn hột do bị hại không đồng ý cho Cơ quan điều tra tháo riêng phần đá và không cung cấp được giấy kết quả thử nghiệm phân biệt rõ khối lượng nên hội đồng không có cơ sở định giá.

Tổng trị giá các tài sản mà B chiếm đoạt của bị hại là 9.090.200 đồng (đối với các tài sản có cơ sở định giá). Ngày 15/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thế B về tội ‘Trộm cắp tài sản”. Quá trình điều tra, Nguyễn Thế B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu được nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt do Cơ quan điều tra thu hồi được, ngoài ra không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Tại bản Cáo trạng số 09/CT-VKS-Q8 ngày 16/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Thế B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thế B về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thế B từ 18 tháng đến 24 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. về xử lý vật chứng, đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 truy tố bị cáo. Bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thế B tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại Chị Nguyễn Thị Hồng L và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả định giá tài sản, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ, ngày 10/9/2020, tại nhà số 231/15A3 LHP, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Thế B có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, có tổng trị giá là 9.090.200 đồng và một số tài sản không có cơ sở định giá.

[3] Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Thế B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tiền án của bị cáo: Năm 2019, bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Xét về nhân thân bị cáo: Năm 2012, bị cáo đã từng bị kết án và bị xử phạt tù về tội “Cướp giật tài sản”, mặc dù không bị coi là án tích nhưng điều này cho thấy bị cáo có nhân thân xấu nên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[7] Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- 01 USB lưu trữ hình ảnh bị cáo B trộm cắp tài sản của chị L ngày 10/9/2020 do chị L giao nộp. Chị L không có yêu cầu nhận lại nên tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

- Số tài sản mà bị cáo B lấy trộm của chị L, quá trình điều tra đã thu hồi được, xét đây là tài sản hợp pháp của chị L nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho chị L các tài sản này.

- 01 (một) túi nylon màu trắng sọc đỏ là vật dùng để chứa số tài sản mà B lấy trộm, xét không có giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc quần soọc màu xanh dương có sọc màu xanh lá cây và xám, xét là trang phục mà bị cáo mặc khi phạm tội, không có giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu nhận lại các tài sản do bị cáo chiếm đoạt, đã thu hồi được trong quá trình điều tra, xét yêu cầu bị hại là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về xử lý vật chứng nên có căn cứ chấp nhận. Ngoài yêu cầu được nhận lại tài sản, chị L không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Quá trình điều tra, xác định chị Huỳnh Thị Tú C (là vợ bị cáo) không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội, cất giấu tài sản tại nhà số 231/8C LHP, Phường M, Quận T, nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/9/2020.

- Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tiếp tục lưu trữ tại hồ sơ vụ án 01 (một) USB màu xanh lá cây, nhãn hiệu Kingston.

Trả lại cho Chị Nguyễn Thị Hồng L các tài sản gồm:

- 01 (một) dây chuyền bằng kim loại màu trắng dài khoảng 45cm có khối lượng 6,18 gram, hàm lượng vàng (%Au): 75,51.

- 01 (một) mặt dây chuyền bằng kim loại màu trắng hình phật, gắn đá màu trắng có khối lượng 2,49 gram, hàm lượng vàng (%Au): 41,40; loại đá: không giá trị.

- 01 (một) vòng tay bằng kim loại màu trắng, gắn đá màu trắng có khối lượng 14,51 gram, hàm lượng vàng (%Au): 61,29; loại đá: không giá trị.

- 01 (một) vòng tay bằng kim loại màu trắng, gắn đá màu trắng có khối lượng 10,00 gram, hàm lượng vàng (%Au): 61,02; loại đá: không giá trị.

- 01 (một) vòng tay bằng kim loại màu vàng, lồng charm màu trắng gắn đá màu trắng có khối lượng 17,47 gram, hàm lượng vàng (%Au): 61,30; loại đá: không giá trị.

- 01 (một) đôi bông tai bằng kim loại màu trắng, gắn đá màu trắng có khối lượng 2,84 gram; hàm lượng vàng (%Au): 61,44; loại đá: không giá trị.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu trắng, gắn đá màu trắng có khối lượng 2,47 gram, hàm lượng vàng (%Au): 58,84; loại đá: Kc - tròn - 6v - 1.2A, Kc - tròn - 2v - 4.1 SI/G.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu trắng, gắn đá màu trắng có khối lượng 3,39 gram, hàm lượng vàng (%Au): 59,05; loại đá: Kc - tròn - 6v - 1.7A, Kc - tròn - 2v - 2.4A, Kc - tròn - 4v - 2.6A, Kc - tròn - lv - 5.1SI/G .

- 03 (ba) chai nước hoa nhãn hiệu Chanel dạng nước.

- 01 (một) chai nước hoa nhãn hiệu Chanel dạng sáp bôi.

- 02 (hai) chiếc mắt kính nhãn hiệu Chanel.

- 01 (một) chiếc mắt kính nhãn hiệu Versace.

- 01 (một) chiếc túi nhung màu đỏ.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) túi nylon màu trắng sọc đỏ.

- 01 (một) chiếc quần sọoc màu xanh dương có sọc màu xanh lá cây và xám.

(Tất cả theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/12/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8 và Biên bản giao nhận tài sản ngày 09/12/2020, tại Kho Bạc Nhà nước Quận 8)

- Căn cứ vào Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Thế B nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2021/HS-ST

Số hiệu:12/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;