Bản án về tội trộm cắp tài sản số 121/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 18/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 3 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 102/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với:

Bị cáo Phạm Thái Thủy T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh năm: 1992; Nơi cư trú: khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: lớp 10/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Họ tên cha: Phạm Minh H, sinh năm 1959 (còn sống); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1968 (còn sống); Gia đình bị cáo có 10 chị em, bị cáo là con thứ 03, không có chồng và có 06 người con (con lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2019); Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 16/10/2019, bị Ủy ban nhân dân phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị bắt, tạm giữ ngày 03/12/2019, chuyển tạm giam theo lệnh số 01 ngày 10/12/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa. (Có mặt).

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 2000.

Địa chỉ: Khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Ngày 02/12/2019, Phạm Thái Thủy T cùng bạn trai tên là Bảo A, ngụ tại 26/9B, phường T, thành phố B đến nhà nghỉ “V” tại tổ 2, khu phố 5, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và thuê ở tại phòng số 08. Khoảng 04 giờ ngày 03/12/2019, T đi ra hành lang nhà nghỉ thì phát hiện phòng số 09 của chị Nguyễn Thị Yến N, ngụ tại xã L, huyện C, tỉnh An Giang thuê để ở không đóng cửa sổ nên T đi đến nhìn vào trong phòng thì phát hiện 01 chiếc giỏ xách của chị N để trên ghế sát cửa sổ và T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T thò tay qua cửa sổ lấy chiếc giỏ xách của chị N mang về phòng rồi lục giỏ xách lấy 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J8 và tháo sim điện thoại vứt bỏ, sau đó T giấu chiếc điện thoại vào trong người rồi mang chiếc giỏ xách của chị N trả lại vị trí cũ trong phòng chị N. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, chị N thức dậy và phát hiện bị mất tài sản nên đã trình báo Công an phường Trảng Dài. Qua kiểm tra hình ảnh Camera tại nhà nghỉ thì Công an phường Trảng Dài đã làm việc với T và thu giữ chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J8 T giấu trong người. Sau đó, Công an phường Trảng Dài đã lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa để điều tra, xử lý.

Lời khai bị can tại các bút lục (29-41); Lời khai người liên quan tại các bút lục (63-65); Lời khai bị hại tại các bút lục (60-62);

Trong quá trình điều tra, chị Nguyễn Thị Yến N khai báo ngoài chiếc điện thoại Samsung Galaxy J8 thì còn bị mất 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng) nhưng bị cáo Phạm Thái Thủy T không thừa nhận đã trộm cắp số tiền trên, ngoài ra không có tài liệu chứng cứ nào khác nên không đủ cơ sở để kết luận bị cáo T đã trộm cắp số tiền trên.

Tại bản kết luận định giá số 603/TCKH-HĐĐG ngày 05/12/2019, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8 trị giá 3.360.000đ (Ba triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng) Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho chị Nguyễn Thị Yến N.

- 01 (một) USB bên trong có chứa hình ảnh bị cáo T trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Yến N.

- Số tiền 965.000 đồng (Chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) là tài sản của bị cáo Phạm Thái Thủy T, Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bị can T.

Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Yến N không yêu cầu bồi thường.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 109/CT-VKSBH-HS ngày 14/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Phạm Thái Thủy T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Phạm Thái Thủy T từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

Bị cáo T có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, lời khai của họ đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử; nên Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận định giá tài sản, biên bản lấy lời khai bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 04 giờ ngày 03/12/2019 tại nhà nghỉ “V” ở tổ 2, khu phố 5, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, Phạm Thái Thủy T đã thực hiện hành vi trộm cắp của chị Nguyễn Thị Yến N 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8 có giá trị định giá là 3.360.000đ (Ba triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Phạm Thái Thủy T phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 109/CT-VKSBH-HS ngày 14/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “trộm cắp tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Bị cáo là người không có nghề nghiệp, biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Về nhân thân: Trước đó bị cáo T bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo chưa có tiền án. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo T để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho chị Nguyễn Thị Yến N là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 (một) USB bên trong có chứa hình ảnh bị cáo T trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Yến N được lưu kèm hồ sơ vụ án.

- Số tiền 965.000 đồng (Chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) là tài sản của bị cáo Phạm Thái Thủy T, Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bị cáo T là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Bị hại chị Nguyễn Thị Yến N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Phạm Thái Thủy T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thái Thủy T 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2019.

2. Về án phí:Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Thái Thủy T phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 121/2020/HS-ST

Số hiệu:121/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;