TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 118/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 114/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
- Nguyễn Văn D, sinh năm 1985, tại: Nghệ An; Hộ khẩu thường trú: Xóm L, xã H, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; Có vợ Nguyễn Thị M, sinh năm 1986 và có 03 con lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2021; tiền sự: Không; tiền án: Tiền án:
- Ngày 25/9/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt tội trộm cắp tài sản 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 04 tháng tính từ ngày tuyên án (qua xác minh đã chấp hành án phí; chưa được xoá án tích).Nhân thân:
- Ngày 27/12/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương xử phạt tội trộm cắp tài sản 01 năm 03 tháng tù, chấp hành tại trại giam T1 đến ngày 18/01/2014 (qua xác minh đã chấp hành án phí).
- Ngày 19/5/2014 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương xử phạt tội trộm cắp tài sản 20 tháng tù, chấp hành tại trại giam H2 đến ngày 18/8/2015 (qua xác minh đã chấp hành án phí).- Ngày 28/12/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt tội trộm cắp tài sản 06 tháng tù giam, chấp hành tại Nhà tạm giữ Công an quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh đến ngày 17/02/2018 (qua xác minh đã chấp hành án phí); Tạm giữ,tạm giam ngày: 08/11/2022; (Có mặt).
- Bị hại:- Ông Cáp Xuân H, sinh năm 1978; Hộ khẩu thường trú: ấp A xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; chỗ ở: số E đường B, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14h00 ngày 06/11/2022, Nguyễn Văn D đến nhà hàng H3 tại thành phố D, tỉnh Bình Dương, dự tiệc cưới thì gặp người bạn đã quen từ trước tên H1 (chưa rõ nhân thân lai lịch). Qua nói chuyện H1 rủ D đi chơi thì D đồng ý. Sau đó, H1 chở D bằng chiếc xe Exciter màu đỏ đen (không rõ biển số), trên đường đi H1 có nói “Đi kiếm con xe”, thì D hiểu ý là H1 rủ D đi trộm cắp xe máy. D đồng ý và nói: “Đi thì đi nhưng có gì đâu mà trộm” ý nghĩa câu nói của D là không có dụng cụ bẻ khóa. H1 nói: “đi qua An Phú Đ, Quận A để trộm xe của những người đi câu cá ở bờ kè không trông coi để lấy trộm”. Sau đó, H1 chở D đi từ hướng thành phố D, Bình Dương qua đoạn cầu vượt B được vài trăm mét thì có 01 người bạn của H1 (không rõ lai lịch) đi chiếc xe máy Honda Sonic màu trắng (không rõ biển số) đứng đợi sẵn rồi đi cùng với H1 và D. Cả 03 đi về hướng quận G đến địa chỉ mà H1 và bạn đã xác định trước. Khi đến địa điểm có công trình đang xây dựng tại địa chỉ A Đường số B, Phường F, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện có 01 chiếc xe máy Honda SH125i màu đỏ, BS: 59P3- xxxxx đang dựng trong sân công trình, không khóa cổ có 01 người đàn ông đang nằm ngủ gần chiếc xe nên dừng lại lấy trộm. Khi D và H1 lấy trộm thì bạn của H1 đứng bên ngoài làm nhiệm vụ cảnh giới. D lấy trộm được chiếc xe trên thì H1 lái chiếc xe Exciter màu đỏ đen (Không rõ biển số) đẩy kè D cùng xe máy Honda SH125i màu đỏ, BS: 59P3-xxxxx đến bờ sông khu vực Tổ A, Khu phố D, phường A, Quận A để cất giấu và gọi người đến đấu dây điện để tẩu thoát. Trong quá trình tháo dàn áo và đấu dây điện của chiếc xe máy đã trộm cắp được thì Công an phường A, Quận A đến kiểm tra. H1 và bạn của H1 chạy xe tẩu thoát, riêng D và chiếc xe máy Honda SH125i màu đỏ, BS: 59P3-xxxxx được đưa về trụ sở làm việc. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G để thụ lý điều tra.
Tại Cơ quan điều tra Công an quận G, Nguyễn Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đối với các đối tượng tên H1 và bạn của H1 do chưa xác minh được thông tin lai lịch nên tiếp tục điều tra sẽ xử lý sau.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe máy hon da SH125i màu đỏ, BS: 59P3-xxxxx đã được thu hồi. Kết luận định giá tài sản số 255/KL-HĐĐGTS ngày 15/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS cấp quận - Ủy ban nhân dân quận G xác định giá trị tại thời điểm ngày 06/11/2022 là 87.333.333 đồng (tám mươi bảy triệu, ba trăm ba mươi ba ngàn, ba trăm ba mươi ba đồng). Cơ quan điều tra Công an quận G đã trả lại chiếc xe mô tô SH125i BS: 59P3-xxxxx cho chủ sở hữu.
- Một Usb kèm theo hồ sơ vụ án.
- Một kềm kim loại.
- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen, số imeil: 357705109982150.
- Một áo sơ mi dài tay màu xám sọc đen.
- Một quần tây màu xanh dương.
Tại bản cáo trạng số 117/CTr-VKS, ngày 25/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Nguyễn Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.
Tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ 01 USB, tịch thu và tiêu hủy 01 cây kềm kim loại.
Trả lại cho bị cáo 01 áo sơ mi dài tay màu xám sọc đen, 01 quần tây màu xanh dương và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen.
Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về hòa nhập cùng cộng đồng xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Nguyễn Văn D đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận G, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Văn D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Lợi dụng sự mất cảnh giác của bị hại bị cáo và đồng bọn đã lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét nhân thân bị cáo đã nhiều lần bị xử lý về hành vi trộm cắp tài sản, trong đó còn 01 tiền án chưa được xóa nên lần phạm tội này là tái phạm là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giúp bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.
[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình và bản thân bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, tài sản thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Tại phiên tòa hôm nay bị hại vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện đã nhận lại tài sản bị mất không yêu cầu gì khác nên tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 xe máy Hon da SH125i màu đỏ, BS: 59P3-xxxxx qua xác minh là của ông Cáp Xuân H, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông H. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.
- Đối với 01 áo sơ mi dài tay màu xám sọc đen, 01 quần tây màu xanh dương và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen, là tài sản riêng của bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 cây kềm kim loại là dụng cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) USB ghi lại hành vi trộm cắp của bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ.
[8] Đối với các đối tượng tên H1 và bạn của H1 do chưa xác minh được thông tin lai lịch nên tiếp tục điều tra sẽ xử lý sau.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/11/2022.
Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a,b,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D 01 (một) áo sơ mi dài tay màu xám sọc đen, 01 (một) quần tây màu xanh dương và 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen, số imeil: 357705109982150.
Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) cây kềm kim loại.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 177/PNK, ngày 30/11/2022 của Công an quận G).
Tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ 01 (một) USB (đã bổ sung).
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).
Bản án 118/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 118/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về