Bản án về tội trộm cắp tài sản số 114/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 114/2024/HS-ST NGÀY 28/10/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2024/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Văn T, sinh năm 1980 tại xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 04/12; đảng, đoàn thể: Không; con ông: Trương Văn C (đã chết); con bà Cao Thị H, sinh năm 1961; vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1984, con: bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án số 69/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam xử phạt Trương Văn T 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, T đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/6/2024.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/8/2024 đến nay, bị cáo hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B, được trích xuất, có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Ông Vũ Chí H1, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28/7/2024, bị cáo Trương Văn T đi xe ô tô buýt từ Bắc Ninh về đến khu vực Sân vận động huyện L thuộc tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện L thì xuống xe. Sau đó T đi bộ ra phía sau khán đài của sân vận động, khi đi tới vị trí vỉa hè đối diện cổng Tòa án nhân dân huyện Lục Nam và Ủy ban nhân dân huyện L, T thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4- 67xx của ông Vũ Chí H1 đang để trên vỉa hè, xe vẫn cắm chìa khóa điện. Quan sát không có người trông coi, T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. Thao tiến lại gần rồi dắt xe mô tô từ trên vỉa hè xuống lòng đường, T mở khóa đề nổ máy rồi điểu khiển xe đi thẳng về nhà cất giấu.

Ngày 31/7/2024, ông Vũ Chí H1 làm đơn trình báo và giao nộp 01 đăng ký mô tô, xe máy số 007201 và 01 căn cước công dân đều mang tên Vũ Trí H2. Cùng ngày, Trương Văn T đến Công an xã Đ, huyện L đầu thú và giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4-67xx.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 56 ngày 05/8/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4-67xx có giá trị là 4.000.000 đồng.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Vũ Chí H1 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4-67xx, ông H1 đã nhận lại tài sản tài sản và không có yêu cầu bồi thường. Đối với 01 đăng ký mô tô, xe máy số 007201 và 01 căn cước công dân đều mang tên Vũ Trí H2 (bản phô tô công chứng) được lưu trong hồ sơ vụ án.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Trương Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 111/CT-VKS ngày 10/10/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đã truy tố bị cáo Trương Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173- Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đã phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trương Văn T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2024. Miễn hình phạt bổ sung bị cáo.

Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo Trương Văn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi và quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trước cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm và diễn biến của quá trình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28/7/2024, tại khu vực trên vỉa hè sân vận động (đối diện Tòa án nhân dân huyện Lục Nam và Ủy ban nhân dân huyện L) thuộc tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang, bị cáo Trương Văn T có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4-67xx của ông Vũ Chí H1 có giá trị là 4.000.000 đồng; tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại.

[3] Xét tính chất của vụ án: Vụ án này có 01 bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Trương Văn T (có tiền án về tội Trộm cắp tài sản) đã có hành vi lén lút để chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4-67xx của ông Vũ Chí H1 có giá trị là 4.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173- Bộ luật hình sự.

[4] Về tiền án: Tại bản án số 69/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam xử phạt Trương Văn T 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, T đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/6/2024. [5] Về tiền sự: Không có.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T chưa được xóa án tích lại phạm tội mới nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khi vụ việc bị phát hiện bị cáo đã đến cơ quan cảnh sát điều tra để đầu thú. Do vậy, cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T khi quyết định hình phạt.

[8] Xét thấy, bị cáo Nguyễn Văn T1 là người có nhân thân xấu, đã có tiền án, bị cáo đã bị Tòa án xét xử về hành vi Trộm cắp tài sản, bị cáo đã có thời gian đi chấp hành hình phạt tù. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm. Chứng tỏ bị cáo là đối tượng khó giáo dục nên cần có hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Như vậy, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội như đại diện VKSND huyện Lục Nam đã phát biểu về đường lối giải quyết vụ án.

[9] Về hình phạt bổ sung: Tội phạm do bị cáo thực hiện, lẽ ra phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, HĐXX thấy bị cáo hiện nay không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định do sau khi phạm tội đã bị tạm giam, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Vũ Chí H1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo cho việc thi hành án, HĐXX thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo là phù hợp với Điều 329- BLTTHS.

[12] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng đen, Biển kiểm soát 98N4-67xx là vật chứng của vụ án. Ngày 07/8/2024, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Vũ Chí H1, ông H1 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì, HĐXX thấy cần chấp nhận.

[13] Về án phí: Bị cáo Trương Văn T thuộc diện hộ nghèo nên HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[14] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt: Bị cáo Trương Văn T 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2024.

3. Về án phí: Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Trương Văn T.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 332 và 333- BLTTHS Báo cho bị cáo có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 114/2024/HS-ST

Số hiệu:114/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;