Bản án về tội trộm cắp tài sản số 112/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 112/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 103/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức Thảo E - Sinh ngày 02.3.1980 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ A, phường H, quận L, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức C (chết) và bà Đặng Thị T (sinh năm 1943); Vợ con: Không có.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 12.6.1997 bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản theo bản án số 81/1997/HSST.

- Ngày 28.12.1998 bị Toà án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 30 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 39/1998/HSST.

- Ngày 24.01.2002 bị Toà án nhân dân quận Liên Chiểu xử phạt 42 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 01/2002/HSST.

- Ngày 27.02.2006 bị Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 42 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 19/2006/HSPT.

- Ngày 19.8.2009 bị Toà án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 24 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 48/2009/HSST.

- Ngày 18.02.2012 bị Toà án nhân dân quận Liên Chiểu xử phạt 36 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 10/2012/HSST.

- Ngày 27.02.2017 bị Toà án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xử phạt 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 07/2017/HSST. Chấp hành xong ngày 05.02.2018.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08.9.2023. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Đức Thảo E: Bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1969 (chị ruột); trú tại: Tổ A, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức Thảo E: Bà Trần Thị Thùy Tr – Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị H1 – sinh năm 1989; trú tại: đường N, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Đoàn Văn Đ – sinh năm 1970; trú tại: Thôn A, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Vắng mặt.

+ Ông Trương Hùng T – sinh năm 1985; trú tại: Tổ A, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 30.01.2023, Nguyễn Đức Thảo E điều khiển xe mô tô gắn biển kiểm soát 75HR-xxxx đi ngang qua gác chắn đường sắt thuộc tổ A, phường H, quận L, TP Đà Nẵng thì dừng lại và đi vào khu vực gác chắn để xin nước uống. Khi vào bên trong gác chắn thì Thảo E phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A32 của chị Nguyễn Thị H1 (sinh năm 1989, trú: đường N, phường H, quận L, TP Đà Nẵng là nhân viên gác chắn đường sắt) để ở đây và đang đi ra ngoài nên nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại nêu trên. Sau khi trộm cắp Em đem điện thoại nêu trên về nhà để sử dụng. Một lúc sau chị H1 đi vào gác chắn thì phát hiện bị mất điện thoại nên trình báo Công an phường H. Đến ngày 02.02.2023, Công an phường H phát hiện Nguyễn Đức Thảo E đang sử dụng điện thoại của chị H1 nên mời lên làm việc và E đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.

* Theo Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 10.02.2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A32 trị giá 3.900.000 đồng.

* Theo kết luận giám định pháp y về tâm thần số 666/KLGĐ ngày 30.5.2023 của Trung tâm P kết luận Nguyễn Đức Thảo E:

- Trước thời điểm gây án:

+ Về Y học: Tâm thần phân liệt thể paranoid, tiến triển liên tục (F20.00) + Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

- Tại thời điểm gây án:

+ Về Y học: Tâm thần phân liệt thể paranoid, tiến triển liên tục (F20.00).

+ Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

- Thời điểm hiện tại:

+ Về Y học: Tâm thần phân liệt thể paranoid, tiến triển liên tục (F20.00).

Đối tượng cần được điều trị ngoại trú.

+ Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

* Về vật chứng tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A32; xe mô tô gắn biển kiểm soát 75HR-xxxx.

Tại Cáo trạng số 102/CT-VKS, ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Nguyễn Đức Thảo Em về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Nguyễn Đức Thảo E, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thị H1 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập xem xét.

* Về xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô gắn biển kiểm soát 75HR-xxxx: Xe này do Nguyễn Đức Thảo E mượn của một người tên T tại Đà Nẵng để đi công việc. Qua điều tra xác định xe này do anh Đoàn Văn Đ (sinh năm 1970, trú: Thôn A, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế) đứng tên chủ sỡ hữu và anh Đ đã bán cho một người không nhớ tên tuổi tại Đà Nẵng và đã giao xe cùng giấy tờ xe nhưng không viết giấy tờ bán xe. Hiện nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu vẫn chưa xác định chính xác chủ sở hữu của xe mô tô này nên tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức Thảo E là luật sư Trần Thị Thùy Tr thống nhất với cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; thống nhất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện viện kiểm sát đề nghị. Tuy nhiên, đề nghị HĐXX xem xét nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt mức án nhẹ nhất theo như đề nghị của Viện kiểm sát cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Đức Thảo E thống nhất với lời bào chữa của luật sư Trần Thị Thùy Tr và không có ý kiến bổ sung.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Đức Thảo E Em là bà Nguyễn Thị H đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức Thảo E và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức Thảo E trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 30.01.2023 tại gác chắn đường sắt thuộc tổ A, phường H, quận L, TP Đà Nẵng, Nguyễn Đức Thảo E đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A32 của chị Nguyễn Thị H1 trị giá 3.900.000 đồng (ba triệu chín trăm ngàn đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đức Thảo E đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng số 102/CT-VKS, ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Đức Thảo E mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi nhưng vẫn có khả năng nhận thức được việc xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là vi phạm pháp luật. Bản thân đã từng bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản nhưng chỉ vì muốn thụ hưởng lợi ích vật chất không bằng sức lao động chân chính của mình mà đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của người khác, là một trong các quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ, gây bất bình, hoang mang, lo lắng cho nhân dân, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Đức Thảo E không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo Thảo E có nhân thân xấu, từ năm 1997 đến năm 2017 đã 07 lần bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản.

HĐXX xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét mức hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

HĐXX xét thấy bản thân bị cáo Nguyễn Đức Thảo E đã nhiều lần bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản nhưng nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để chiếm đoạt tài sản. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, HĐXX xét thấy không có cơ sở cho bị cáo Thảo E được hưởng án treo như đề nghị của đại diện hợp pháp của bị cáo mà cần phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo dưới sự giám sát của pháp luật mới đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên việc người bào chữa cho bị cáo đề nghị mức hình phạt nhẹ nhất theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên HĐXX sẽ xem xét khi lượng hình.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại Nguyễn Thị H1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không đề cập xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

Ngày 01.8.2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu ra Quyết định xử lý vật chứng số: 63/QĐ-XLVC bằng hình thức trao trả một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A32 cho bà Nguyễn Thị H1. Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu xử lý như vậy là có căn cứ nên HĐXX không xem xét.

Đối với xe mô tô gắn biển kiểm soát 75HR-xxxx: Xe này do Nguyễn Đức Thảo E mượn của một người tên T tại Đà Nẵng để đi công việc. Qua điều tra xác định xe này do anh Đoàn Văn Đ (sinh năm 1970, trú: Thôn A, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế) đứng tên chủ sỡ hữu và anh Đ đã bán cho một người không nhớ tên tuổi tại Đà Nẵng và đã giao xe cùng giấy tờ xe nhưng không viết giấy tờ bán xe. Hiện nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu vẫn chưa xác định chính xác chủ sở hữu của xe mô tô này nên tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ, xử lý sau. Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu xử lý như vậy là có căn cứ nên HĐXX không xem xét.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Đức Thảo E phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Đức Thảo E 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08.9.2023.

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH4 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Đức Thảo E phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; riêng những người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 112/2023/HS-ST

Số hiệu:112/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;