TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 11/2021/HSST NGÀY 02/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 2 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐ-HSST ngày 19-3- 2021 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Lâm Quốc Đ. Sinh ngày: 28/12/2001. Trú tại: Xóm 1, thôn Đ, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 8/12; Họ và tên cha: Lâm Văn Đ1 - SN: 1959; Họ và tên mẹ: Lương Thị M - SN: 1965; Vợ, con: chưa có; Tiền án, Tiền sự: Chưa có.
Bị can bị tạm giữ từ ngày 24/01/2021 đến ngày 27/01/2021 và bị tạm giam từ ngày 27/01/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Trực Ninh. (bị cáo có mặt tại phiên toà).
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Số nhà 42 D, TDP T, TT C, huyện T, tỉnh Nam Định. (có mặt) - Người làm chứng: Bà Vũ Thị X, sinh năm 1963; Trú tại: TDP T, TT C, huyện T, tỉnh Nam Định.
- Ông Lâm Văn Đ1, sinh năm 1959; Địa chỉ: xóm 1, thôn Đ, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; (Ông Đ1 có mặt, bà X vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 01/12/2020, Lâm Quốc Đ đi mô tô, mang theo 01 túi nilon đựng áo khoác đến cửa hàng giặt là T H của chị Nguyễn Thị Thanh T để thuê giặt sấy. Khi tới nơi Đ gặp bà Vũ Thị X (là mẹ chồng của chị T), Đ đã đưa túi áo khoác cho bà X và dặn mai sẽ đến lấy. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Đ đi xe mô tô quay lại cửa hàng của chị T, mục đích lấy lại áo để đi có việc. Đ dựng xe ngoài cửa, đi vào cửa hàng nhưng không thấy có ai. Đ gọi nhiều lần vẫn không thấy ai trả lời. Đ quan sát thấy chiếc áo khoác của mình vẫn để trong túi trên mặt bàn cạnh giá để đồ, gần cửa ra vào, thấy trên mặt tủ kính đựng đồ áp cửa ra vào phía đông có để 01 điện thoại di động OPPO A9 màu xanh. Đ lấy áo ra treo lên xe, khi mang áo ra xe, Đ không thấy có ai nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại để bán lấy tiền tiêu sài. Ngay sau đó Đ đi vào lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi ra xe nổ máy đi đến quán Internet ở xã Nam Hồng, huyện Nam Trực để chơi điện tử và lấy chiếc điện thoại ra xem thì thấy có chứng minh thư của chị T để ở ốp lưng. Đ rút chứng minh thư ra bỏ vào túi quần. Đến khoảng 19 giờ Đ cầm chiếc điện thoại về nhà gặp ông Lâm Văn Đ1 (là bố đẻ Đ). Ông Đ1 hỏi Đ: “Mày lấy trộm điện thoại dưới Cổ Lễ đúng không”, Đ trả lời: “Vâng”. Ông Đ1 nói tiếp: “Mày cầm điện thoại xuống trả ngay không mày chết”, Đ trả lời: “Vâng”. Sau khi ăn cơm xong Đ đi chơi điện tử đến 23 giờ cùng ngày, Đ mang chiếc điện thoại trên đặt vào ngách cửa phụ nhà chị T để trả, còn chiếc chứng minh thư của chị T, Đ đánh rơi nên không tìm thấy để trả cho chị T. Ngày 02/10/2020 Đ đến cơ quan công an đầu thú. Sau khi làm việc với cơ quan Công an, Đ được cho về để chờ xử lý thì Đ bỏ trốn đi khỏi địa phương.
.Sau khi không tìm thấy điện thoại, chị T kiểm tra camera phát hiện có một thanh niên đi vào lấy hàng và đã lấy chiếc điện thoại của chị, chị T gửi đơn đến cơ quan công an trình báo. Đến sáng ngày 02/10/2020 chị T dọn dẹp nhà cửa thì thấy điện thoại ở cửa ngách nhà.
Ngày 22/10/2020 Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh xác định chiếc điện thoại OPPO-A9 2020 màu xanh của chị T có giá trị 3.300.000 đồng (Ba triệu ba trăm nghìn đồng).
Ngày 01/12/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trực Ninh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lâm Quốc Đ về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự 2015. Đ bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 08/12/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Trực Ninh ra quyết định truy nã đối với Lâm Quốc Đ, đến ngày 24/01/2021 thì bắt được Đ lẩn trốn tại xã Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh phúc.
Về trách nhiệm dân sự: Chị T đã nhận lại chiếc điện thoại, không yêu cầu Đ bồi thường thêm bất cứ khoản gì. Đối với chiếc chứng minh thư Đ làm mất chị T không yêu cầu bồi thường. Chị T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đối với chiếc xe Mô tô 18B2 – 52259 Đ sử dụng đi trộm cắp tài sản của chị T sau đó Đ làm mất nên không thu hồi được. Đối với chiếc điện thoại OPPO-A3 thu của Đ khi bị bắt truy nã không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan CSĐT đã trả lại cho gia đình Đ quản lý.
Đối với chiếc áo khoác của Đ, Đ tự lấy tại nhà chị T, không có giá trị nên không xem xét xử lý.
Tại cơ quan điều tra Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 24-02-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh truy tố bị cáo Lâm Quốc Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà hôm nay: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lâm Quốc Đ theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Lâm Quốc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 173 BLHS, Điểm b,h,i,s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều thực hiện đúng theo qui định pháp luật.
[2] Từ những chứng cứ nêu trên - HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 01/10/2020 Lâm Quốc Đ đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại OPPO – A9 2020 của chị Nguyễn Thị Thanh T ở số nhà 42 đường đê S, TT C, huyện T, tỉnh Nam Định. Chiếc điện thoại có giá trị: 3.300.000 đồng (Ba triệu ba trăm nghìn đồng) Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Tính chất tội phạm nghiêm trọng thể hiện ở hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu nhằm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo là người có đầy đủ trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi, vi phạm pháp luật của mình. Hành vi của bị cáo Lâm Quốc Đ bị VKSND huyện Trực Ninh truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa gây tiệt hại về tài sản; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. HĐXX thấy bị cáo thành khẩn khai báo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng quá trình cơ quan điều tra, bị cáo Đ đã bỏ trốn gây khó khăn cho giải quyết vụ án nên cần thiết phải cách ly bị cáo một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã trả lại tài sản cho người bị hại, người bị hại đã nhận được tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lâm Quốc Đ phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lâm Quốc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm b, h, i và điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lâm Quốc Đ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam, ngày 24/01/2021.
2. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ điều 135 BLHS 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lâm Quốc Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu, tự nguyện hoặc bị cưỡng chế theo các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2021/HSST
Số hiệu: | 11/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về