Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 108/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2022/HSST ngày 29/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2022/HSST- QĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn Th, tên gọi khác: không; Sinh ngày 19 tháng 8 năm 1994, tại: Thái Bình; HKTT: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn:9/12, Nghề nghiệp: làm thuê; Con ông: không rõ tên cha; con bà Lương Thị H, sinh năm: 1960; vợ: Đào Thị Kiều L, sinh năm: 1992; có 01 người con, sinh năm 2013; Tiền án: Tại Bản án số 92/2014/HSST ngày 16/6/2014 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh C đã xử phạt Lương Văn Th 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2014 về tội“Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/3/2015; Tại bản án số 43/2016/HSST ngày 06/9/2016 của Toà án nhân dân huyện A, tỉnh B, xử phạt Lương Văn Th 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2016 về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/6/2019; Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 15/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố A. Có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên: Nguyễn Minh T, tên gọi khác: không. Sinh ngày 23 tháng 02 năm 1999, tại: Hà Nội; HKTT: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12, Nghề nghiệp: làm thuê; Con ông: Nguyễn Văn K, sinh năm: 1962 và Nguyễn Thị H, sinh năm: 1964; vợ Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm: 1999; có 02 người con, sinh năm 2018 và năm 2021. Tiền án; tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 31/8/2017, bị Công an thành phố A xử phạt 3.000.000đồng về hành vi sử dụng các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trái quy định nhưng chưa gây hậu quả, bị cáo đã nộp phạt ngày 05/10/2017. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Anh Nguyễn T, sinh năm 1994. Trú tại: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Trần Đức Th, sinh năm 1992. Trú tại: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D. Vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Hoàng Ngọc H, sinh năm 1988. Trú tại: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Chị Phan Thị Kim Ph, sinh năm 1996. Trú tại: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Văn Th là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, sống lang thang và có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản và Cướp tài sản””. Trong thời gian từ ngày 02/5/2021 đến ngày 14/12/2021 Th đã thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 21h30 ngày 02/5/2021, anh Nguyễn T điều khiển xe mô tô biển số 47E1 - 359.X chở chị K’Lê N, sinh năm 2000, trú tại: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D đến khách sạn A số đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D. Khi đi đến khách sạn, anh T để xe mô tô biển số 47E1 - 359.X ở trong hầm để xe và đi cùng chị N lên phòng 105 của khách sạn, sau đó để chìa khoá xe mô tô biển số 47E1 - 359.X ở trong nón bảo hiểm. Lúc này, Lương Văn Th và Trần Nguyễn Anh Th, sinh ngày 01/11/2005, HKTT: xã A, huyện B, tỉnh C đang ở nhờ phòng 105 của chị N nên cả hai tiếp tục xin chị N cho ở nhưng chị N không đồng ý nên Th và Th đi xuống khu vực hầm để xe thì Th nhớ sự việc đã nhìn thấy anh T để chìa khoá xe trong nón bảo hiểm nên Th nảy sinh ý định lấy chìa khóa để trộm xe mô tô của anh T. Th không bàn bạc gì với Th mà nói Th đi ra ngoài đường đứng đợi, Th một mình quay lại phòng nói chị N “cho đi vào phòng để lấy áo”, lợi dụng lúc chị N không để ý Th đã lấy trộm chìa khoá xe, đi xuống hầm để xe của khách sạn A và sử dụng chìa khóa xe vừa lấy trộm được tìm mở các xe trong hầm thì phát hiện được xe mô tô biển số 47E1 - 359.X của anh T nên Th đã lấy trộm và điều khiển ra đường Phù Đổng Thiên Vương, Phường 8, thành phố Đà Lạt đón Thư. Đến ngày 03/5/2021, Th đến gặp vợ chồng chị Phan Thị Kim Ph, sinh năm: 1995, trú tại: đường A, Phường B, thành phố C, tỉnh D cầm cố xe mô tô biển số 47E1 - 359.X được 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), số tiền này Th đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi xảy ra sự việc, Lương Văn Th đã bỏ trốn, sống lang thang. Đến ngày 06/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố A đã ra quyết định truy nã số 32/QĐTN đối với Th.

Tại Kết luận định giá tài sản số 117/KL-ĐG ngày 02/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt xác định: 01 (một) xe mô tô biển số 47E1 - 359.X, số khung: 5819GY966176, số máy: JF66E1064743, trị giá là: 21.560.000 đồng (hai mươi mốt triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng). Anh Nguyễn T đã nhận lại xe và không yêu cầu bồi thường gì khác.

Vụ thứ hai: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 02/5/2021, Lương Văn Th đã bỏ trốn và biết đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt truy nã nhưng không đến Cơ quan Công an trình diện mà lẩn trốn ở các địa bàn huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Đến khoảng tháng 11/2021, Th đến nhà của Nguyễn Minh T để ở. Tại đây, Th biết T không có tiền mua sữa cho con mới sinh nên vào khoảng 15 giờ ngày 14/12/2021, trong lúc Nguyễn Minh T điều khiển xe mô tô biển số 49D1 - 510.X chở Lương Văn Th đi chơi, khi đi ngang qua nhà số 48G đường A, Phường B, thành phố C thì Th nhìn thấy một lồng chim được phủ vải, bên trong lồng có con chim chào mào của anh Trần Đức Th đang để dưới đất không có người trông coi thì Th nảy sinh ý định trộm cắp nên đã rủ T cùng lấy trộm và T đồng ý. T dừng xe mô tô biển số 49D1 - 510.X lại và điều khiển xe quay lại nơi để lồng chim để Th ngồi phía sau xe trộm lấy lồng cùng con chim chào mào. Sau khi lấy trộm, cả hai mang tài sản về nhà T để cất giấu. Đến ngày 15/12/2021, Th và T đi đến quán cà phê Hoàng V bán lồng và con chim chào mào cho anh Hoàng Ngọc H được 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng), số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 15/12/2021 Công an thành phố Đà Lạt đã bắt giữ Lương Văn Th theo quyết định truy nã và mời Nguyễn Minh T về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan Công an, Lương Văn Th và Nguyễn Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 02/KL-ĐG ngày 13/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt xác định: tại thời điểm 01 (một) con chim chào mào màu nâu đen, đít đỏ, mí đỏ; đo từ đầu đến hết long đuôi dài 20 cm, chim còn sống, phát triển bình thường có giá trị (trong mục đích giải trí) là 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm ngàn đồng); 01 (một) lồng chim bằng tre, lồng sing đan khít, cao 55 cm, ngang 40 cm, đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm ngàn đồng); 01 (một) áo phủ lồng chim, có nhiều hoạ tiết nhỏ, đã qua sử dụng không có giá trị mua bán. Tổng tài sản có giá trị là: 5.800.000 đồng (năm triệu tám trăm ngàn đồng). Anh Trần Đức Thạch, sau khi nhận lại tài sản bị mất thì không có yêu cầu bồi thường gì khác. Anh Hoàng Ngọc H không yêu cầu phải bồi thường gì.

Trong vụ án này, chị Phan Thị Kim Ph khi cầm cố xe mô tô biển số 47E1 - 359.X. cho Lương Văn Th thì không biết đây là tài sản do Th trộm cắp mà có và khi biết tài sản cầm cố là tài sản trộm cắp đã chủ động liên hện với Công an để trả lại xe nên không có cơ sở xử lý đối với chị Phúc.

Anh Hoàng Ngọc H khi mua tài sản của Th, H không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có được nên không có cơ sở xử lý với H.

Tại Bản cáo trạng số 99/CT-VKSĐL -LĐ ngày 28/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt đã truy tố bị cáo Lương Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, giữ nguyên bản cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị:

Về hình phạt:

Đề nghị áp dụng điểm g Khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 58, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ Lương Văn Th từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm 06 tháng tù.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 09 đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và chị Ph, buộc bị cáo trả cho chị Ph 4.000.000đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lương Văn Th có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Nguyễn T trị giá 21.560.000đồng, bị cáo Lương Văn Th và Nguyễn Minh T lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Trần Đức Th có giá trị 5.800.000đồng, bị cáo Lương Văn Th đã từng bị kết án về tội “trộm cắp tài sản và cướp tài sản”, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội do cố ý. Hành vi của bị cáo Lương Văn Th bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và hành vi của bị cáo Nguyễn Minh T bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét thấy tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, cấm mọi hành vi xâm phạm tài sản của người khác trái pháp luật nhưng chỉ vì không có tiền tiêu xài cá nhân mà các bị cáo đã lén lút chiếm tài sản của bị hại. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nên cần áp dụng mức hình phạt phù hợp, cách ly các bị cáo khỏi cuộc sống cộng đồng một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Trong vụ án này các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, phân công cụ thể, bị cáo Th là người rủ rê bị cáo T, có nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên cần có mức án cao hơn bị cáo T là phù hợp.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại anh Trần Đức Th có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ cho các bị cáo nên áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng thêm điểm i Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Th phạm tội nhiều lần nên áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Chị Phan Thị Kim Ph yêu cầu Lương Văn Th phải trả lại số tiền 4.000.000 đồng và bị cáo đồng ý nên ghi nhận sự tự nguyện, buộc bị cáo Lương Văn Th trả lại cho chị Ph 4.000.000đồng.

[5] Về vật chứng: Vật chứng chuyển sang Chi cục thi hành án thành phố Đà Lạt ngày 29/4/2022: 01 (một) xe môtô hiệu Nouvo, biển số 49D1-510.X (không kiểm tra tình trạng chất lượng xe) hiện chưa xác minh được chủ sở hữu nên tuyên giao lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt xử lý theo quy định.

[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lương Văn Th và Nguyễn Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm g Khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 58 và điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Lương Văn Th 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2021.

3. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểu 38; điểm i, s Khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Minh T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

4. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và chị Ph, bị cáo Lương Văn Th phải trả lại cho chị Phan Thị Kim P số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên: Giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt 01 (một) xe môtô hiệu Nouvo, biển số 49D1-510.X (không kiểm tra tình trạng chất lượng xe) theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt ngày 29/4/2022).

6. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST

Số hiệu:108/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;