Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 107/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 81/2022/TLST, ngày 9 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐXX ngày 13 tháng 6 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Trung K, sinh: 2001. Nơi cư trú: số C, H, H1, H2, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Văn hóa: 12/12. Họ và tên cha: Trần Thế Tr, sinh 1976. Họ và tên mẹ: Phạm Thị Thu P1, sinh 1976. Bị cáo là con một.

Tiền án, tiền sự: không.

Bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 05/3/2022 đến ngày 14/3/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Tiến S, sinh ngày 24/6/2005. Tính đến thời điểm phạm tội là 16 tuổi 7 tháng 20 ngày. HKTT: Ph, S, K, Hưng Yên. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Văn hóa: 08/12. Bố: Nguyễn Xuân Tr1, sinh 1982. Mẹ: Lê Thị H1 (Đã chết). Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: không.

Bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 05/3/2022 đến ngày 14/3/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Đại diện giám hộ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo S có ông Nguyễn Xuân Tr1, sinh 1982. Có mặt tại phiên tòa.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo S có ông Lê Q Đạo sinh năm 1972, Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội - Chi nhánh số 11. Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Duy H, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Thôn M, xã Đ, G, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Văn hóa: 11/12. Bố: Nguyễn Duy L, sinh năm 1976. Mẹ: Nguyễn Thị D, sinh năm 1976. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: không.

Bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 05/3/2022 đến ngày 14/3/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr2, sinh năm 2000; Trú tại: Tổ M1, Gi1, L1, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Lâm Viết Q, sinh năm 1990; Trú tại: Thôn B, xã Đ, G, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh Thạch Văn D1, sinh năm 1981; Trú tại: Thôn H3, xã N, G, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

4. Anh Phạm Công Th, sinh năm 1986; Trú tại: Thôn T1, xã Đ, G, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

5. Anh Lý Văn D2, sinh năm 1995; Trú tại: Thôn B, xã Đ, G, Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

6. Chị Lý Thị M, sinh năm 1975; Trú tại: Thôn B, xã Đ, G, Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

7. Anh Bùi Đại Gi, sinh năm 1992; HKTT: Khu M2, xã Đ1, C, Phú Thọ.

Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Anh T, sinh năm 1983; Trú tại: Thôn L1, xã Y, huyện G, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 00 ngày 05/03/2022, tổ công tác Công an xã Đ thuộc Công an huyện G làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên địa bàn xã Đ, G. Khi đến khu vực thôn 1, xã Đ, tổ công tác kiểm tra Nguyễn Tiến S đang điều khiển xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu đen - xám, BKS : 29N1 - 319.31 có biểu hiện nghi vấn. Quá trình kiểm tra, S khai đây là xe do S cùng với Trần Trung K và Nguyễn Duy H, trộm cắp mà có. Tổ công tác đã đưa Nguyễn Tiến S cùng tang vật về trụ sở cơ quan Công an để điều tra làm rõ. Vật chứng thu giữ của Nguyễn Tiến S : số tiền 70.000 đồng ; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen - xám, BKS : 29N1 - 319.31, số máy JA39E0688833, số khung 3904HY709212, xe đã qua sử dụng.

Cùng ngày 05/3/2022, Cơ quan điều tra đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tiến S, Trần Trung K và Nguyễn Duy H; ra Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của các đối tượng. Qua khám xét tại nhà ở của Nguyễn Duy H tại thôn M, Đ, G, Hà Nội cơ quan điều tra đã thu giữ : 01 tuốc nơ vít hình tròn, dài 23 cm có tay cầm bằng nhựa; 01 cờ lê bằng kim loại dài 13,7 cm ; 01 kéo dài 22,5 cm, tay cầm bằng nhựa màu đỏ. H khai đó là những công cụ mà H cùng K, S sử dụng để đấu nối điện các xe máy trộm cắp được; thu giữ của Trần Trung K: số tiền 270.000 đồng.

Quá trình điều tra Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H khai nhận đã thực hiện các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn xã Đ, G, cụ thể như sau:

Lần thứ 1: Trưa ngày 20/02/2022, Trần Trung K rủ Nguyễn Tiến S đi trộm cắp xe máy để bán lấy tiền tiêu xài, S đồng ý. K và S đi bộ đến đoạn đường Đ (gần cổng Trung tâm sát hạch lái xe) thuộc TDP H, Đ, G, phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu honda Wave Alpha màu trắng-đen-bạc, BKS 29K1-75588 của chị Nguyễn Quỳnh Tr2 – sinh 2000, trú tại: tổ M1, G1, L1, Hà Nội, không có ai trông giữ, xe để ở trên vỉa hè, không khóa cổ, S đã dắt trộm chiếc xe còn K đẩy xe phía sau đi vào trong một ngõ nhỏ ở gần đó vắng người, sau đó S cậy cốp xe lấy chiếc tô vít mở mặt nạ nhựa phía trước xe, S giật đứt dây điện ở đầu xe, đấu dây nổ máy và S điều khiển xe máy trộm cắp được chở K về nhà Nguyễn Duy H ở thôn M, Đ, G chơi và nói với H đây là xe trộm cắp được. Đến chiều cùng ngày, S và K điều khiển chiếc xe trên đến một cửa hàng sửa chữa xe máy tại TT Y để đánh chìa khóa xe. Từ đó, K, S và H sử dụng chiếc xe này để làm phương tiện đi lại.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41 ngày 11/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện G kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen bạc, BKS 29K1-75588 có giá trị: 11.000.000 đồng.

Lần thứ 2: Vào khoảng 2 h ngày 21/02/2022, S và H đi xe mô tô Wave Alpha màu trắng, đen bạc, BKS 29K1-75588 đi xung quanh xã Đ xem ai sơ hở để trộm cắp tài sản. H và S thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu đen, BKS : 29K1-220.14 của anh Lâm Viết Q (sinh: 1990, HKTT: Thôn B, Đ, G, Hà Nội) dựng cạnh tấm tôn màu xanh ở rìa đường thuộc thôn M, Đ, G, không có ai trông giữ xe. S và H bẻ khóa cổ xe, sau đó S dắt chiếc xe trộm cắp được còn H đi xe Honda Wave & màu trắng về nhà H. S lấy tô vít mở phần đầu xe Honda Wave & màu đen đấu điện nổ máy và đi xe đến ngõ N, L2, Ph1, N1, Hà Nội bán chiếc xe này cho một người đi đường (không rõ nhân thân) được 4.000.000 đồng, H và S chia nhau mỗi người 2 triệu đồng. K không biết H và S đi trộm chiếc xe máy trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41 ngày 11/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện G, kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS : 29K1-220.14 có giá trị : 9.000.000 đồng.

Lần thứ 3: Khoảng 01 giờ ngày 23/02/2022, sau khi đi chơi, K, S và H đi về nhà H, bàn bạc với nhau đi trộm cắp xe máy đem bán lấy tiền cùng nhau tiêu xài. Sau đó, K, S, H đi bộ đến dãy nhà trọ số nhà M4 hẻm C, thôn H3, Đ, G, Hà Nội thấy cửa cổng mở, S, K và H đi vào trong sân trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng, BKS 99E1-21571 và chiếc xe đạp điện màu đỏ của anh Thạch Văn D1, sinh 1981, HKTT tại thôn H3, xã N, G, Hà Nội sau đó mang về nhà H, S và H mở mặt nạ nhựa phía trước của xe ra đấu nối dây điện để nổ máy. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày 23/02/2022, S và H mang xe đạp điện đến cửa hàng xe đạp B ở B, H, thị trấn Y bán cho anh Nguyễn Đăng D3 – sinh 1989 được 1.500.000 đồng, S chia cho H 800.000 đồng, S giữ 700.000 đồng. Đến 18 giờ cùng ngày, S và H tiếp tục mang xe mô tô Honda Wave màu trắng, BKS 99E1-21571 đi bán cho một người đàn ông (không rõ nhân thân) ở ngoài đường L2, N, Hà Nội được 4.000.000 đồng. S, H và K chia nhau mỗi người 1.300.000 đồng, còn 100.000 đồng thì sử dụng để mua nước uống.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41 ngày 11/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện G kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, bạc, đen BKS 99E1-21571 có giá trị 10.000.000 đồng; chiếc xe đạp điện màu đỏ có giá trị : 1.400.000 đồng.

Lần thứ 4: Khoảng 01 giờ ngày 27/02/2022, H cùng S và K đến bãi vật liệu xây dựng gần nghĩa trang thuộc thôn H3, Đ, G, H đứng ngoài cảnh giới còn S và K đi vào bên trong gần chỗ lán bằng Contener một lúc và S đi bộ vào trong dắt ra chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS: 29N1-183.32 vẫn cắm chìa khóa ở ổ khóa của anh Phạm Công Th, sinh: 1986, HKTT: Thôn T1, Đ, G, Hà Nội. Sau đó S điều khiển xe chở H và K. Khoảng 12 giờ cùng ngày S mang xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS: 29N1-183.32 trộm cắp được đến đường Đ1 thuộc địa phận xã Y bán cho anh Trần Anh T – sinh 1983, trú tại: thôn L1, xã Y, G được 4.500.000 đồng rồi chia mỗi người được 1.500.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41 ngày 11/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện G kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS: 29N1-183.32 có giá trị 12.000.000 đồng.

Lần thứ 5: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 28/02/2022, K, S và H đi bộ đến một nhà trọ ở số nhà MB hẻm S, thôn B, xã Đ, G, Hà Nội, thấy không khóa cổng, cả ba đi vào bê 02 chiếc xe mô tô Honda Wave alpha màu tím than BKS 23B1-70609 của anh Lý Văn D2 (sinh 1995) và chiếc xe mô tô Honda Wave màu xám - đen – bạc, BKS 23E1-08677 của chị Lý Thị M - sinh 1975 ra ngoài cổng rồi phá khóa cổ xe, K dùng tô vít tháo biển số 23B1-70609 của xe nhãn hiệu Wave, màu tím than vứt ở gần nhà trọ, Sau đó K, S, H dắt 02 chiếc xe mô tô trộm cắp được đi về nhà H, H tháo biển số 23E1-08677 của xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu xám cho vào cốp xe, K dùng tô vít tháo mặt nạ phía trước của 02 xe máy để S đấu dây điện nổ máy. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, K, S và H cùng nhau mang 02 xe mô tô vừa trộm cắp được đi bán ở đường L2, N, Hà Nội cho một người đàn ông (không rõ nhân thân) được 8.000.000 đồng, S chia cho H 3.000.000 đồng, cho K 2.000.000 đồng, S giữ lại 3.000.000 đồng. Số tiền này, các đối tượng đã tiêu xài cá nhân hết.

Nguyễn Tiến S khi mở cốp xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, BKS 23B1-706.09 của anh Lý Văn D2 thấy có 01 ví giả da bên trong có 1.500.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân. S đã lấy số tiền này tiêu xài một mình hết, không nói cho K, H biết về việc này. Ví và giấy tờ thì S đã vứt đi.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41 ngày 11/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện G kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu tím than, BKS 23B1-70609, có giá trị : 14.000.000 đồng ; chiếc xe mô tô Honda Wave màu xám - đen – bạc, BKS 23E1-08677 có giá trị :

11.000.000 đồng.

Lần thứ 6 : Khoảng 01 giờ 00 ngày 04/3/2022, H, K, S đi bộ đến thôn H3, xã Đ, G, thấy khu nhà trọ không khóa cổng, chỉ cài then, S đi vào phát hiện chiếc xe mô tô Honda Wave alpha màu trắng BKS 19G1-384.53 của anh Bùi Đại Gi (sinh 1992, HKTT: Khu M2, xã Đ1, C, Phú Thọ) ở gần cửa cổng ra vào, xe có khóa cổ, không khóa càng sau đó S, K và H bê chiếc xe máy này ra ngoài đường bẻ khóa cổ sau đó K dắt xe đi về nhà H còn H và S đi bộ phía sau. Về nhà H thì S đấu điện nổ máy và mang đến ngõ NT, L2, Ph1, N, Hà Nội bán cho một người đàn ông (không rõ nhân thân) được 6 triệu đồng rồi chia nhau H và S được 2.500.000 đồng và K được 1.000.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41 ngày 11/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện G kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen, bạc, BKS 19G1-384.53 có giá trị 11.500.000 đồng.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn H Honda Wave, màu đen - xám, BKS : 29N1 - 319.31, số máy JA39E0688833, số khung 3904HY709212, xe đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Tiến S. Qua xác minh theo số khung, số máy thì xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave có biển số 29K1 – 75588, S màu trắng – đen – bạc, là xe của chị Nguyễn Quỳnh Tr2 đứng tên đăng ký. Chiếc xe mô tô này K và S đã trộm cắp vào ngày 20/02/2022 và dùng làm phương tiện đi lại. Để tránh bị phát hiện ra xe trộm cắp, H đã tháo biển số xe vứt đi sau đó lắp biển số 29N1 - 319.31 vào xe và dán đề can màu xe là màu đen. Do vậy, ngày 30/5/2022, cơ quan điều tra đã trả chiếc xe mô tô trên cho chị Tr2. Chị Tr2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì.

Sau khi cơ quan điều tra – Công an huyện G ra thông báo truy tìm tang vật đối với những xe mô tô chưa thu hồi được, ngày 31/3/2022, anh Trần Anh T, sinh: 1983, HKTT: thôn L1, Y, G, Hà Nội đến cơ quan điều tra và giao nộp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, không có biển kiểm soát có số khung 276695, số máy 1576714 đó là xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS:

29N1-183.32 của anh Phạm Công Th. Ngày 30/5/2022, cơ quan điều tra đã trả chiếc xe mô tô trên cho anh Th, anh Th đã nhận lại tài sản.

Về dân sự: Đã được giải quyết xong trước khi mở phiên tòa.

Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKS-GL ngày 02/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố bị cáo Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H khai nhận: Vào các ngày 23/02/2022, 27/02/2022, 28/02/2022 và ngày 04/3/2022, các bị cáo Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H cùng nhau thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn xã Đ, G, Hà Nội, cụ thể : trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng, BKS 99E1-21571 có giá trị 10.000.000đồng và chiếc xe đạp điện màu đỏ có giá trị : 1.400.000đồng của anh Thạch Văn D1 ; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream , màu nâu, BKS: 29N1- 183.32 có giá trị 12.000.000đồng của anh Phạm Công Th ; chiếc xe mô tô nhãn H Honda Wave màu tím than, BKS 23B1-70609, có giá trị : 14.000.000đồng và 1.500.000đồng trong cốp xe máy của anh Lý Văn D2; chiếc xe mô tô Honda Wave màu xám - đen – bạc, BKS 23E1-08677 có giá trị : 11.000.000đồng của chị Lý Thị M; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen, bạc, BKS 19G1-384.53 có giá trị 11.500.000đồng của anh Bùi Đại Gi. Tổng giá trị tài sản là: 61.400.000đồng. Riêng ngày 20/02/2022, thì chỉ có K và S trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen bạc, BKS 29K1-75588 có giá trị: 11.000.000đồng của chị Nguyễn Quỳnh Tr2; Ngày 21/02/2022, H và S cùng nhau trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu đen, bạc BKS : 29K1-220.14 có giá trị: 9.000.000đồng của anh Lâm Viết Q.

Đại diện giám hộ bảo vệ quyền và lợi ích hợp cho bị cáo S và Luật sư trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo S không bổ sung lời trình bày phạm tội của bị cáo, đề nghị Tòa án xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G trình bày lời luận tội nêu các hành vi cùng thực hiện trộm cắp tài sản của các bị cáo K, H, S vào các ngày 23/02/2022, 27/02/2022, 28/02/2022 và ngày 04/3/2022 ; Hành vi thực hiện trộm cắp của bị cáo K, S ngày 20/02/2022 và hành vi thực hiện trộm cắp của bị cáo H, S ngày 21/02/2022. Nêu rõ các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điểm g, o Khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; Điều 47; Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Trần Trung K từ 26 - 28 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 05/03/2022. Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 91; Điều 101; Điều 38; Điều 47; Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Tiến S từ 18 - 20 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 05/03/2022; Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; Điều 47; Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Duy H từ 24 – 26 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 05/03/2022. Vật chứng: Xử lý theo quy định. Dân sự: Không.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Lời nói sau cùng, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D2 vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện G, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa đã làm rõ vào các ngày 23/02/2022, 27/02/2022, 28/02/2022 và ngày 04/3/2022, bị cáo Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H cùng nhau thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn xã Đ, G, Hà Nội, như sau: trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng, BKS 99E1-21571 có giá trị 10.000.000đồng và chiếc xe đạp điện màu đỏ có giá trị 1.400.000đồng của anh Thạch Văn D1; Trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS: 29N1-183.32, có giá trị 12.000.000đồng của anh Phạm Công Th; Trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu tím than, BKS 23B1- 70609, có giá trị 14.000.000đồng và 1.500.000đồng trong cốp xe máy của anh Lý Văn D2; Trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Wave màu xám - đen – bạc, BKS 23E1-08677 có giá trị 11.000.000đồng của chị Lý Thị M; Trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen, bạc, BKS 19G1-384.53 có giá trị 11.500.000đồng của anh Bùi Đại Gi. Tổng giá trị tài sản là: 61.400.000đồng. Ngoài ra, ngày 20/02/2022, K và S cùng nhau trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen bạc, BKS 29K1-75588 có giá trị 11.000.000đồng của chị Nguyễn Quỳnh Tr2. Ngày 21/02/2022, H và S cùng nhau trộm cắp trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu đen, bạc BKS : 29K1- 220.14 có giá trị 9.000.000đồng của anh Lâm Viết Q. Tổng giá trị tài sản các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp là 61.400.000.000đồng. Ngoài ra K và S phải chịu thêm về hành vi trộm cắp giá trị tài sản 11.000.000đồng; H và S phải chịu trách nhiệm thêm về hành vi trộm cắp giá trị tài sản 9.000.000đồng.

Vì vậy, đủ căn cứ xác định Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Trần Trung K là người khởi xướng thực hành tích cực cùng các bị cáo Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H thực hiện hành vi phạm tội tích cực.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Đáng chú ý, trong vụ án bị cáo K là kẻ lôi kéo Nguyễn Tiến S là người vị thành niên phạm tội. Các bị cáo cùng nhau thực hiện liên tiếp nhiều hành vi phạm tội trong thời gian ngắn. Do đó xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa phạm tội chung.

Song khi lượng hình cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Như trước phiên tòa các bị cáo đã chủ động liện hệ gia đình khắc phục toàn bộ thiệt hại cho người bị hại; Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo khi quyết định hình phạt. Đối với bị cáo Nguyễn Tiến S là người vị thành niên phạm tội nên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo áp đụng Điều 91; Điều 101 BLHS để áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4]. Vật chứng: Xem xét trả lại anh Lý Văn D2 01 BKS 23B1-706.09; Tịch thu tiêu hủy 01 BKS 23B1-706.09, 01 tuốc nơ vít hình tròn, dài 23cm có tay cầm bằng nhựa, 01 cờ lê bằng kim loại dài 13,7cm, 01 kéo dài 22,5cm, tay cầm bằng nhựa màu đỏ và 01 mũ bảo hiểm chất liệu nhựa màu đen, có kẻ sọc đen trắng. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 340.000đồng thu giữ của các bị cáo do các bị cáo không đề nghị xin lại.

[5]. Về dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi liên quan đã được bồi thường, không còn yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết.

[6]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST sơ thẩm. Miễn án phí cho bị cáo S do khi phạm tội ở độ tuổi vị thành niên.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện giám hộ cho bị cáo S và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo S có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Trung K, Nguyễn Tiến S và Nguyễn Duy H đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điểm g,o Khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; Điều 47; Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Các Điều 106; Điều 331; Điều 333; Điều 336 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Trần Trung K 27 (hai mươi bảy) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ 05/03/2022.

Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 91; Điều 101; Điều 58; Điều 38; Điều 47; Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Các Điều 106; Điều 331; Điều 333; Điều 336 BLTTHS 2015.

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Tiến S 18 (mười tám) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ 05/03/2022.

Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s,b khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; Điều 47; Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Các Điều 106; Điều 331; Điều 333; Điều 336 BLTTHS 2015.

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án..

Xử phạt: Nguyễn Duy H 25 (hai mươi lăm) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ 05/03/2022.

Không phạt bổ sung đối với các bị cáo. Dân sự: Không.

Vật chứng: Trả lại anh Lý Văn D2 01 BKS 23B1-706.09; Tịch thu tiêu hủy 01 BKS 23B1-706.09, 01 tuốc nơ vít hình tròn, dài 23cm có tay cầm bằng nhựa, 01 cờ lê bằng kim loại dài 13,7cm, 01 kéo dài 22,5cm, tay cầm bằng nhựa màu đỏ và 01 mũ bảo hiểm chất liệu nhựa màu đen, có kẻ sọc đen trắng. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 340.000đồng. Hiện vật chứng nêu trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/6/2022 và biên lai thu tiền số 55152 ngày 30/6/2022.

2- Về án phí: Trần Trung K, Nguyễn Duy H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Tiến S.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời H thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo Trần Trung K, Nguyễn Duy H, bị cáo Nguyễn Tiến S, đại diện giám hộ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo S có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2022/HS-ST

Số hiệu:107/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;