Bản án về tội trộm cắp tài sản số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH T QUANG

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T Quang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 97/2022/TLST-HS, ngày 09/9/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế C; Giới tính: Nam; Sinh ngày 27/11/1974;

Nơi thường trú: Tổ dân phố 10, phường N, thành phố T, tỉnh T Quang; Quốc tịch: Việt Nam;  Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 08/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Thế H (đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); Anh, chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ hai; Vợ: Nguyễn Minh H  - Sinh năm 1975 (đã ly hôn); Con: có 01 con sinh năm 2000;

* Tiền án: Không;

* Tiền sự:

+ Ngày 08/6/2020, Công an phường P, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng (Quyết định số 2293/QĐ-XPHC);

+ Ngày 30/6/2020, Tòa án nhân dân thành phố T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Bà H thời gian 15 tháng (Quyết định số 11/2020/QĐ-TA).

- Nhân thân:

+ Ngày 08/9/1995, Tòa án nhân dân tỉnh T Quang, xử phạt Nguyễn Thế C  09  tháng  tù  về  tội  “Lừa  đảo  chiếm  đoạt  tài  sản  của  công  dân”  (Bản án số 53/HSPT);

+ Ngày 27/12/2002, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã T (nay là thành phố T) quyết định đưa vào cai nghiện ma túy bắt buộc tại Công trường 06, thị xã T (nay là thành phố T) (Quyết định số 1232/QĐ-CT);

+ Ngày 15/8/2005, Tòa án nhân dân thị xã T (nay là thành phố T) xử phạt 01  năm  03  tháng  tù  về  tội  “Sử  dụng  trái  phép  chất  ma  túy”  (Bản  án  số  50/2005/HSST);

+ Ngày 15/6/2009, Tòa án nhân dân thị xã T (nay là thành phố T) xử phạt 02  năm tù về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Bản án số 64/2009/HSST);

+ Ngày 30/01/2012, Công an tỉnh T Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng  (Quyết định số 09/QĐ-XPHC);

+ Ngày 05/9/2015, Công an phường N, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức phạt Cảnh cáo (Quyết  định số 16/QĐ-XPH);

+ Ngày 01/4/2016, Công an thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức phạt tiền 500.000 đồng (Quyết  định số 87/QĐ-XPHC);

+ Ngày 03/8/2016, Công an thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức phạt tiền 750.000 đồng (Quyết  định số 162/QĐ-XPHC);

+ Ngày 24/7/2017, Công an thành phố T đối xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng  (Quyết định số 67/QĐ-XPVPHC);

+ Ngày 27/9/2018, Công an phường T, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” hình thức phạt  Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/7/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại  Trại Tạm giam Công an tỉnh T Quang. Có mặt.

* Bị hại: Ông Hoàng Quang T, sinh năm 1970; Địa chỉ: Tổ dân phố 13,  phường P, thành phố T, tỉnh T Quang. Vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn 2, xã L, thành phố T, tỉnh T Quang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 22/02/2022, Nguyễn Thế Bà H tại tổ dân phố 10, phường N, thành phố T (đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài  sản) do thiếu tiền chi tiêu cá nhân nên rủ Nguyễn Văn T, trú tại thôn 2, xã L, thành  phố T đi trộm cắp tài sản, T đồng ý.

Khoảng 01 giờ ngày 23/02/2022, C và T đi bộ từ khu vực cầu Nông Tiến đến khu vực đường Trần Phú thuộc tổ dân phố 17, phường T, thành phố T thì thấy hàng rào bằng lưới thép B40 được cố định bằng các cột kim loại hình trụ tròn quanh khu đất của ông Hoàng Quang T, trú tại tổ dân phố 13, phường P, thành phố T không có người trông coi, C và T cùng nhau dùng tay tháo dỡ tấm lưới thép kiểu B40, kích thước 150x890 cm, khối lượng 29,5kg; 05 cột kim loại dùng để cố định hàng rào (có cùng kích thước) chiều dài 200cm, đường kính 3cm, tổng khối lượng 12,5kg. C và T cuộn tấm lưới thép và 05 cột kim loại lại thành một bó rồi cùng nhau khiêng đến để tại sân kho chứa phế liệu của bà Phan Thị Ánh H, trú tại tổ dân phố 16, phường T, thành phố T, mục đích để bán nhưng Bà H không biết C, T mang sắt đến để tại sân kho nhà mình. Tuy nhiên do còn sớm, không có người ở kho thu mua phế liệu nên C và T đi về.

Khoảng 09 giờ ngày 23/02/2022, ông Hoàng Quang T kiểm tra, phát hiện hàng rào lưới thép quanh khu đất của mình bị trộm mất nên làm đơn trình báo tới Công an phường T, thành phố T. Ngày 26/02/2022, C và T được Công an phường T mời lên làm việc và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản nêu trên.

Kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐGTS ngày 15/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận:

+ 01 tấm lưới kim loại thép B40 có kích thước (150x890)cm, khối lượng  29,5kg trị giá 324.500 đồng.

+ 05 cột kim loại hình trụ tròn có cùng kích thước đường kính 3cm chiều dài  200cm, tổng khối lượng 12,5kg trị giá 137.500 đồng.

Tổng trị giá tài sản là 462.000 đồng (bốn trăm sáu mươi hai nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 110/CT-VKSTP ngày 07/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân nhân thành phố T, tỉnh T Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về  tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng:

điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. T bố bị cáo Nguyễn Thế C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Nguyễn Thế C từ 07 tháng tù đến 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. T nghĩa vụ chịu án phí của bị cáo và T quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo không kêu oan, nội dung khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, không có tình tiết mới, bị cáo không có khiếu nại gì về kết luận điều tra, nhất trí với nội dung cáo trạng và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ ngày 23/02/2022, tại tổ dân phố 17, phường T, thành phố T, Nguyễn Thế Bà H tại Tổ dân phố 10, phường N, thành phố T (đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản) có hành vi trộm cắp 01 tấm lưới kim loại thép B40 có kích thước (150x890)cm, khối  lượng 29,5kg; 05 cột kim loại hình tròn có cùng kích thước chiều dài 200cm,  đường kính 3cm, tổng khối lượng 12,5kg, có tổng trị giá là 462.000 đồng (bốn  trăm sáu mươi hai nghìn đồng) của ông Hoàng Quang T, trú tại tổ dân phố 13,  phường P, thành phố T.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo lén lút chiếm đoạt 01 tấm lưới kim loại thép B40 có kích thước (150x890)cm, khối lượng 29,5kg; 05 cột kim loại hình tròn có cùng kích thước chiều dài 200cm, đường kính 3cm, tổng khối lượng 12,5kg, có tổng trị giá là  462.000 đồng (bốn trăm sáu mươi hai nghìn đồng) của chủ sở là ông Hoàng Quang T, tuy trị giá tài sản bị cáo trộm cắp có trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo  “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài tài sản” đây là tình tiết định đội đối với bị cáo nên hành vi của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T Quang truy tố bị cáo Nguyễn Thế C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo có sức khỏe, có khả năng lao động nhưng không chịu lao động kiếm tiền chân chính mà lại trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng  trách nhiệm hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: HĐXX nhận thấy, bị cáo có nhân thân xấu và có tiền sự, đã bị xử lý hành chính và bị xét xử vì phạm phạm pháp luật nhiều lần nhưng không lấy làm bài học rút kinh nghiệm mà còn tiếp tục phạm tội, qua đó đánh giá ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo còn rất kém. Hành vi của  bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, khó có thể tự mình tu dưỡng cải tạo tại địa   phương. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; số tiền bị cáo chiếm đoạt cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, cần chấp nhận.

Đối với Anh Nguyễn Văn T là người cùng bị cáo Nguyễn Thế C thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Hoàng Quang T, qua xác minh T chưa có tiền án, tiền sự, Công an thành phố T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số  000231/QĐ-XPHC ngày 30/7/2022 đối với T về hành vi trộm cắp tài sản, hình thức phạt tiền 2.500.000 đồng. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX xét thấy anh T không còn có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này, nên xác  định tư cách tham gia tố tụng của anh T là người làm chứng.

Đối với bà Phan Thị Ánh H không biết C, T mang tài sản trộm cắp đến để tại sân kho nhà mình nên không đề cập xử lý.

[6]  Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.

[7]  Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hoàng Quang T nhận lại tài sản, không yêu cầu bị can bồi thường về dân sự.

[9]  Vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra tạm giữ của Nguyễn Thế C, Nguyễn Văn T 01 tấm lưới kim loại thép B40 có kích thước (150x890)cm, khối lượng 29,5kg; 05 cột kim loại hình tròn cùng kích thước chiều dài 200cm, đường kính 3cm, tổng khối lượng 12,5kg; Ngày 06/4/2022, Cơ quan điều tra trả lại số tài sản trên cho ông Hoàng Quang T là chủ sở hữu tài sản nên HĐXX không xem về vật chứng.

[10] Án phí của vụ án: Bị cáo Nguyễn Thế C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày T án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- T bố bị cáo Nguyễn Thế C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế C 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày  bị cáo bị bắt tạm giam 04/7/2022.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử  dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Thế C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Nguyễn Thế C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày T án 26/9/2022; Bi hại – ông Hoàng Quang T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;