TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 105/2021/HSST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 120/2021/HSST, ngày 25/5/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2020/HSST-QĐ, ngày 31/5/2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn D, sinh năm 1990 tại Đắk Lắk. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đội 3, thôn 9, xã B, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không: Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1964. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt ngày 13/02/2021 đến ngày 22/02/2021 được tại ngoại – Có mặt.
- Bị hại: Anh Trương Văn Đ, sinh năm 1994, địa chỉ: Thôn 10, xã E, huyện E, tỉnh Đắk, Lắk. Chỗ ở hiện nay: Ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai – Vắng mặt.
Người làm chứng:
+ Anh Trương Thế P –Vắng mặt.
+ Chị K – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ ngày 31/01/2021, Nguyễn Văn D đi bộ ngang qua phòng trọ của chị K thuộc ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì thấy xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider biển số 59F1 – 654.434 của anh Trương Văn Đ (bạn của chị K) đang dựng trước phòng trọ không có người trông coi, quản lý nên D nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên làm phương tiện đi lại. D lén lút dắt bộ xe mô tô 59F1 – 654.43 đến khu đất rẫy cách phòng trọ của chị K khoảng 200m và giấu vào bụi cỏ rồi đi bộ về phòng trọ của mình tại tổ 3, ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, D quay lại dùng chìa khóa (loại dùng để mở khóa phòng trọ) mở khóa điện, ổ máy điều khiển xe về phòng trọ của mình và sử dụng xe mô tô 59F1 – 654.43 đi trên đường thuộc ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì bị anh Đ và anh Trương Thế P em trai anh Đ phát hiện bắt giữ.
Ngày 18/02/2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện T kết luận: 01 xe mô tô hiệu Suzuki Raider biển số 59F1 – 654.43 đã qua sử dụng trị giá 12.000.000đ.
Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Suzaki Raider biển số 59F1 – 654.43 cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là anh Trương Văn Đ.
Đối với chìa khóa mà Nguyễn Văn D đã sử dụng để mở ổ khóa điện xe mô tô 59F1 – 654.43 D đã vứt đi không xác định được địa điểm nên cơ quan điều tra không thu hồi được.
Về dân sự: Anh Trương Văn Đ đã nhận được tài sản và không thắc mắc, khiếu nại hay yêu cầu gì khác.
Tại bản Cáo trạng số 135/CT/VKS-TB, ngày 20/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên nội dung cáo trạng, phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề xuất xử phạt bị cáo từ 06 tháng tù đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 02 năm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 15 giờ ngày 31/01/2021, tại ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Văn D có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Suzuki Raider biển số 59F1 – 654.43 của anh Trương Văn Đ trị giá 12.000.000đ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, do vậy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận thấy: Trong vụ án này bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại; Trong thời gian tại ngoại bị cáo chấp hành đúng cam kết, không có biểu hiện vi phạm pháp luật, là lao động chính trong gia đình. Căn cứ nghị quyết 02/2018/HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, hội đồng xét xử xét thấy cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: 01 xe mô tô hiệu Suzaki Raider biển số 59F1 – 654.43 cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là anh Trương Văn Đ là có căn cứ pháp luật.
[5] Đối với chìa khóa mà Nguyễn Văn D đã sử dụng để mở ổ khóa điện xe mô tô 59F1 – 654.43, D đã vứt đi không xác định được địa điểm nên cơ quan điều tra không thu hồi được.
[6] Về dân sự: Anh Trương Văn Đ đã nhận được tài sản và không thắc mắc, khiếu nại hay yêu cầu gì khác nên không xem xét thêm.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 02/2018/HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn D cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục bị cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của Điều 56 Bộ luật hình sự.
2. Áp dụng Điều 136 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 105/2021/HSST
Số hiệu: | 105/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về