Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 103/2020/HS-ST NGÀY 02/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Viết H, sinh năm 1993 tại Q; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký NKTT: Xã B, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn C, sinh năm 1952 và bà Đoàn Thị T, sinh năm 1951; gia đình có 06 anh chi em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 27/10/2019, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 492 ngày 04/11/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Biên Hòa.(có mặt)

2. Trần Văn T, sinh năm 1997 tại S; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký NKTT: Ấp N, xã L, huyện T, tỉnh S; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1965 và bà Đỗ Thị C, sinh năm 1967; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; có vợ là Nguyễn Trúc Đ, sinh năm 1997 và có 02 con (lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2018); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 27/10/2019, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 493 ngày 04/11/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Biên Hòa.(có mặt).

- Người bị hại: Anh Lê Thanh V, sinh năm 1978. (có mặt) Địa chỉ: khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 16/10/2019, Nguyễn Viết H đi bộ lang thang để tìm tài sản trộm cắp, khi đi đến phòng trọ ở khu phố L, phường T, thành phố Biên Hòa do anh Lê Thanh V thuê trọ thì phát hiện phía trước phòng trọ có dựng 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 69L1-X bên trong anh V đang ngủ. H vào trong phòng lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Oppo đang cắm xạc trên cửa sổ rồi lấy chìa khóa xe mô tô treo ở cửa sổ ra ngoài mở khóa xe nổ máy bỏ đi. H điều khiển xe mô tô vừa trộm được đến gặp Trần Văn T, sinh năm 1997 ở trọ tại xã A, huyện L, tỉnh Đ nhờ bán xe dùm, T biết rõ xe do H trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý. Đến khoảng 09 giờ ngày 17/10/2019, T cùng H đem xe đến khu vực thuộc xã A, huyện L, tỉnh Đ bán cho 02 đối tượng (chưa rõ họ tên, địa chỉ) với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), H chia cho T 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng). Chiếc điện thoại oppo, H mang đến cầm cho Đinh Văn H ngụ tại khu phố L, phường T, thành phố Biên Hòa với số tiền 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng). Sau khi sự việc xảy ra anh Lê Thanh V đã đến Công an phường T trình báo, ngày 26/10/2019, Công an phường Tam P phát hiện H có biểu hiện nghi vấn nên đưa về công an phường làm việc. Quá trình làm việc, H khai nhận hành vi phạm tội nên Công an phường T lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO model A71 đã được thu hồi và giao trả cho chủ sở hữu là anh Lê Thanh V.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 69L1-X hiện chưa thu hồi được do H, T đã bán cho người không rõ lai lịch.

Tại kết luận định giá tài sản số 490/TCKH-HĐĐG ngày 29/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Biên Hòa kết luận: “01 chiếc xe mô tô biển số 69L1-X và 01 điện thoại Oppo model A71 có tổng giá trị định giá là 16.036.000 đồng (Mười sáu triệu không trăm ba mươi sáu nghìn đồng)”.

Trách nhiệm dân sự: Anh Lê Thanh V yêu cầu các bị cáo bồi thường giá trị chiếc xe mô tô biển số 69L1-X theo kết luận của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Biên Hòa là 15.040.000 đồng (Mười lăm triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số 82/CT-VKSBH ngày 03/2/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị cáo:

- Nguyễn Viết H, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

- Trần Văn T, về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1, điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Viết H với mức án từ 16 đến 20 tháng tù;

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Trần Văn T với mức án từ 08 đến 10 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

- Buộc bị cáo Nguyễn Viết H bồi thường giá trị chiếc xe mô tô biển số 69L1- X do H trộm cắp là 15.040.000 đồng (Mười lăm triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng) cho anh Lê Thanh V.

- Buộc bị cáo Trần Văn T giao nộp số tiền hưởng lợi bất chính là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Đối với Đinh Văn H có hành vi tiêu thụ chiếc điện thoại Oppo do Nguyễn Viết H trộm cắp mà có, tuy nhiên quá trình điều tra chưa xác định được nơi ở của H và H cũng không đăng ký tạm trú nên chưa làm việc được vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau. Đối với hai đối tượng mua xe mô tô biển số 69L1-X Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Ý kiến của các bị cáo: Không phát biểu tranh luận và không bào chữa.

Trong phần phát biểu lời nói sau cùng các bị cáo đều đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt và hứa không tái phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cụ thể: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 16/10/2019, tại phòng trọ ở khu phố L, phường T, thành phố Biên Hòa. Nguyễn Viết H đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô biển số 69L1-X và 01 điện thoại Oppo model A71 có tổng giá trị định giá là 16.036.000 đồng (Mười sáu triệu không trăm ba mươi sáu nghìn đồng) của anh Lê Thanh V. Sau đó H đem xe mô tô đến nhờ Trần Văn T bán, mặc dù biết rõ xe trên là do H trộm cắp mà có nhưng T vẫn giúp H bán xe cho 02 đối tượng (chưa rõ họ tên, địa chỉ) với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) và được H chia cho 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

[3] Đối chiếu lời khai của các bị cáo với lời khai của người bị hại cùng các chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Viết H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và hành vi của bị cáo Trần Văn T đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã viện dẫn và truy tố.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình cho quần chúng nhân dân.

Xét trong vụ án này bị cáo Nguyễn Viết H là người trực tiếp thực hiện trộm cắp tài sản của người bị hại. Bị cáo Trần Văn T là người biết rõ chiếc xe mô tô biển số 69L1- X là tài sản do H trộm cắp mà có nhưng vẫn giúp H tiêu thụ đem bán cho 02 đối tượng (chưa rõ họ, tên địa chỉ) để được hưởng lợi bất chính 400.000 đồng. Do vậy mức hình phạt của bị cáo Nguyễn Viết H cao hơn đối với mức hình phạt của bị cáo Trần Văn T. Tuy nhiên HĐXX cũng xem xét đánh giá đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo để quyết định hình phạt áp dụng tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm cải tạo và giáo dục các bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình Điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về trách nhiệm bồi thường dân sự và xử lý vật chứng vật: Quá trình điều tra và tại phiên tòa người bị hại là anh Lê Thanh V yêu cầu bồi thường giá trị chiếc xe mô tô biển số 69L1-X do bị cáo Nguyễn Viết H thực hiện hành vi trộm cắp vào ngày 16/10/2019 là 15.040.000 đồng (Mười lăm triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng ). Xét yêu cầu về bồi thường thiệt hại của người bị hại là hoàn toàn chính đáng và đúng với qui định của pháp luật nên chấp nhận. Buộc bị cáo Nguyễn Viết H phải bồi thường cho người bị hại là anh Lê Thanh V số tiền 15.040.000 đồng (Mười lăm triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).

Áp dụng Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Buộc bị cáo Trần Văn T giao nộp số tiền thu lợi bất chính là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

[8] Đối với Đinh Văn H có hành vi tiêu thụ chiếc điện thoại Oppo do bị cáo Nguyễn Viết H trộm cắp mà có, tuy nhiên quá trình Điều tra chưa xác định được nơi ở của H và H cũng không đăng ký tạm trú nên chưa làm việc được vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau. Đối với hai đối tượng mua xe mô tô biển số 69L1-X Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau là phù hợp.

[9] Về án phí:

- Bị cáo Nguyễn Viết H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 752.000đ (bảy trăm năm mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

- Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2019.

- Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và các Điều 584, 585, 586, 590, 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Viết H phải bồi thường cho người bị hại là anh Lê Thanh V số tiền 15.040.000 đồng (Mười lăm triệu, không trăm bốn mươi nghìn đồng).

Buộc bị cáo Trần Văn T giao nộp số tiền thu lợi bất chính là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

- Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Viết H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 752.000đ (bảy trăm năm mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Các bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2020/HS-ST

Số hiệu:103/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;