Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 05/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2023/TLST-HS, ngày 18 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Hoàng K, sinh ngày 20-10-1995 tại tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú: Khóm A, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Trần Thị Hồng N;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 12-10-2021, bị xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-XPHC ngày 12- 10-2021 của Công an P1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, chưa chấp hành nộp phạt theo quyết định.

Nhân thân:

- Ngày 05-4-2018, bị xử phạt 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 22/QĐ-XPVPHC ngày 05-4-2018 của Công an P1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

- Ngày 04-6-2018, bị xử phạt 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 31/QĐ-XPVPHC ngày 04-6-2018 của Công an P1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

- Ngày 05-9-2018, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quyết định số: 123/GCN-UBND ngày 05-9-2018 của Ủy ban nhân dân Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

- Ngày 04-9-2019, bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc (thời hạn cai nghiện là 18 tháng) theo Quyết định số 05/QĐ-TA ngày 04-9-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

- Ngày 16-9-2022, bị xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HS-ST ngày 16-9-2022 của Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam B thuộc Bộ C; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn N1, Luật sư trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh S. (có mặt)

- Bị hại:

1. Ngô Thị H, sinh ngày 01-01-1967; cư trú tại: Khóm A, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Trần Minh T1, sinh ngày 01-01-1974; cư trú tại Khóm A, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Văn T, sinh ngày 01-01-1969; cư trú tại Khóm A, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Lữ Văn T2, sinh năm 1958; cư trú tại: Khóm A, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Ông Liêu Văn Hạ P, sinh ngày 14-5-2004; cư trú tại: Khóm A, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 6 giờ 45 phút, ngày 19-9-2022, bị cáo Trần Hoàng K từ nhà ở Khóm A, Phường A, thị xã N điều khiển xe Mô tô biển số 60 R1 -xxxx của ông Trần Văn T là cha của K đến nhà Liêu Văn H1 Phàm để rủ P cùng đi bán con gà trống, loại gà đá có lông màu đỏ - đen cho ông Võ Văn U ở Phường C, thị xã N. Được P đồng ý, K đưa xe cho P điều khiển chở K ngồi phía sau ôm con gà, khi đi gần đến nhà bà Ngô Thị H, cùng ở Khóm A, Phường A, thị xã N thì xe bị hư tắt máy, nên P sửa xe, còn K thì đứng cách Phàm khoảng 05m. Lúc này K nhìn thấy trong vườn nhà bà H có 01 con gà trống, loại gà tre lông màu vàng – đen – đỏ không có ai trông coi, nên K nảy sinh ý định bắt trộm con gà đem về nuôi. K đi vào trong vườn và dùng con gà trống của mình đang ôm nhử bắt được con gà trống của bà H. Sau khi bắt được gà, K ôm vào trong người cùng với con gà của K đi trở ra lộ, thì bị ông Lữ Văn T2 phát hiện và cho bà H hay tin. Sau đó bà H trình báo sự việc trên đến Công an P1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. Công an P1 đến hiện trường mời Trần Hoàng K về làm việc, đồng thời tạm giữ con gà trống của bà H và tạm giữ con gà trống của K để làm rõ.

Qua điều tra, xác minh xác định được Trần Hoàng K có 01 tiền sự chưa hết thời hạn được xem là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, cụ thể: Vào ngày 12/10/2021, Công an P1, thị xã N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số: 48/QĐ- XPHC với số tiền phạt 2.000.000 đồng, chưa chấp hành đóng phạt theo quy định.

Tại Bản kết luận định giá số 26/KL-HĐĐG ngày 03-10-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã N kết luận: 01 con gà trống (loại gà tre) màu lông vàng – đen – đỏ (hay còn gọi là gà chuối), có trọng lượng 1,68 kg giá trị là 152.320 đồng;

Vật chứng của vụ án gồm: 01 con gà trọng lượng 1,68 kg, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Ngô Thị H; 01 con gà trọng lượng 1,9 kg của Trần Hoàng K dùng để nhử bắt gà của bà H, trong quá trình quản lý bị chết nên đã tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Cáo trạng số 08/CT-VKSNN ngày 16-01-2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Trần Hoàng K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, tỉnh Sóc Trăng giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận; sau khi phân tích hành vi, mức độ phạm tội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tổng hợp hình phạt theo quy định. Về xử lý vật chứng, đã được xử lý tại giai đoạn điều tra đúng quy định nên không đặt ra xem xét. Về trách nhiệm dân sự, bị hại không yêu cầu nên đề nghị không đặt ra xem xét.

Đối với Liêu Văn Hạ P có đi chung Trần Hoàng K để bán gà, nhưng khi K thực hiện hành vi trộm cắp con gà trống của bà Ngô Thị H thì K không có bàn bạc trao đổi với P, một mình K thực hiện hành vi trộm cắp P không biết. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX không xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự đối với Liêu Văn Hạ P.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Hoàng K trình bày: Thống nhất với tội danh và các tình tiết giảm nhẹ mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Về hình phạt, đề nghị HĐXX khi lượng hình cân nhắc đến yếu tố do bị cáo không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ đó, quyết định hình phạt ở mức thấp nhất mà Kiểm sát viên đề nghị là 01 năm tù.

- Bị cáo Trần Hoàng K thống nhất với bản cáo trạng, thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trong phần tranh luận, bị cáo thống nhất với trình bày của người bào chữa, không có ý kiến tranh luận.

- Bị hại Ngô Thị H không yêu cầu bồi thường thiệt hại và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T không có ý kiến.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt bị hại Trần Minh T1 và người làm chứng Liêu Văn Hạ P: Xét thấy, bị hại Trần Minh T1 không có yêu cầu trách nhiệm dân sự; người làm chứng Liêu Văn Hạ P đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra và việc vắng mặt không làm cản trở đến việc xét xử. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, HĐXX quyết định xét xử vắng mặt bị hại Trần Minh T1 và người làm chứng Liêu Văn Hạ P.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố. Lời thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai, tường trình của bị cáo, của bị hại và những người làm chứng trong quá trình điều tra. Lời khai của bị cáo còn phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở xác định vào ngày 19-9-2022, lợi dụng lúc các bị hại không có ở nhà, bị cáo Trần Hoàng K đã lén lúc bắt trộm 01 con gà trống của các bị hại đang thả nuôi trong vườn không có người trông coi.

[4] Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được dưới 2.000.000 đồng nhưng trước đó bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 12-10-2021, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Hoàng K phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan cho bị cáo.

[5] Hành vi của bị cáo đã thực hiện là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự, đã bị cơ quan có thẩm quyền tại địa phương xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần. Bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật và đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi này, bị Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào ngày 16-9-2022 nhưng đến ngày 19-9-2022 thì bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, HĐXX xét thấy cần có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo:

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo gây thiệt hại không lớn do đã thu hồi được toàn bộ tài sản trả cho bị hại. Ngoài ra, bị cáo có bà ngoại là bà Nguyễn Thị L được Nhà nước cho hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công và tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Kiểm sát viên và người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng để giảm một phần hình phạt cho bị cáo là có cơ sở nên được HĐXX chấp nhận.

[9] Ngoài ra, bị cáo là người không biết chữ, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét các yếu tố này để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy, đây là các đặc điểm về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội, nên HĐXX chấp nhận và cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

[10] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự: HĐXX xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và thể hiện rõ ý kiến không yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[12] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xử lý đúng quy định tại khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[13] Đối với Liêu Văn Hạ P có cùng bị cáo để bán gà, nhưng khi bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp thì không có bàn bạc trao đổi với P. Quá trình điều tra chỉ chứng minh được Trần Hoàng K thực hiện hành vi trộm cắp và P không hay biết. Vì vậy, Kiểm sát viên đề nghị không xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự đối với Liêu Văn Hạ P là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.

[14] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 47; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Hoàng K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù tại Bản án số 25/2022/HS-ST ngày 16- 9-2022 của Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, buộc bị cáo Trần Hoàng K chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm tù. Được khấu trừ vào thời gian đã chấp hành từ ngày 11-11-2022 đến ngày 04-4-2023. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 05-4-2023.

2. Trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Hoàng K được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;