TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Quốc V - Sinh năm 1997; Tên gọi khác: Không Nơi sinh: Xã Xuân Dương, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa Nơi ĐKHKTT: Thôn Vụ Bản, xã Xuân Dương, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Trần Văn K, sinh năm 1972; Con bà: Đỗ Thị V, sinh năm 1973; Vợ, con: Chưa có.
Tiền sự: Không Tiền án: 01 (một). Ngày 17/9/2019 bị cáo bị TAND huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, xét xử và xử phạt 17 (Mười bảy) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại số 20/20219/HS-ST ngày 17/9/2019 thì Vương chưa được xóa án tích tại Bản án sơ thẩm số 29/2017/HS-ST ngày 28/11/2017 nên đã thuộc trường hợp tái phạm theo khoản 1 Điều 53 BLHS). Ngày 17/10/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù của bản án ngày 17/9/2019, chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Ngày 05/3/2014, Trần Quốc V bị TAND huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt 07 (Bảy) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã đươc xóa án tích; Ngày 28/11/2017, Trần Quốc V bị TAND huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt 07 (Bảy) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện đã được xóa án tích;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 chuyển tạm giam ngày 08/3/2022, hiện đang bị Tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quan Sơn. Có mặt.
* Người bị hại: Chị Lục Thị H, sinh năm 1990. Địa chỉ: Bản Pọong 2, xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
* Người chứng kiến:
- Anh Quản Đình M, sinh năm 1972. Địa chỉ: Bản Pọong 1, xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.
- Anh Trần Tuấn A, sinh năm 1994. Địa chỉ: Bản Thủy Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
Đây là vụ án “Rút kinh nghiệm” của Thẩm phán trong năm 2022.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ, ngày 01/3/2022, chị Lục Thị H trú tại bản Pọong 2 xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa đi ra phía sau nhà chuẩn bị cơm cho gia đình. Lúc này chỉ có chị H và 02 cháu nhỏ ở nhà. Đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày, chị H quay lên nhà thì không thấy chiếc túi da màu nâu đặt trên bàn sau quầy thuốc ở đâu, trong túi có khoảng 10.000.000đ (Mười triệu đồng), vì tiền bán hàng nên chị nhớ không chính xác số cụ thể và các giấy tờ, gồm: 03 căn cước công dân mang tên Lục Thị H, Lộc Thị Ơ, Lộc Văn M; 03 thẻ bảo hiểm y tế mang tên: Lục Thị H, Lộc Đức T, Lộc Quang M; 01 bằng lái xe mô tô mang tên Lục Thị H; 03 thẻ ngân hàng mang tên Lục Thị H; 01 chùm chìa khoán và một số giấy tờ hóa đơn bán hàng khác. Sau khi chị H phát hiện bị mất trộm tiền và giấy tờ, chị H đã kiển tra và xem lại video từ Camera quan sát của gia đình thì thấy có 01 thanh niên mặc áo chống nắng kẻ sọc, có đội mũ và đeo khẩu trang, mặc quần thể thao sọc trắng đã đi vào trong quầy thuốc và trộm chiếc túi da màu nâu đựng tiền và giấy tờ như đã nêu trên. Sau đó chị H đã đến Công an xã Hiền Kiệt trình báo sự việc.
Đến 12 giờ ngày 02/3/2022, thì Trần Quốc V đến Công an an xã Hiền Kiệt đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đó là: Khoảng 16 giờ ngày 01/3/2022, V đi nhờ xe máy của một nam thanh niên không quen biết từ xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn sang xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa để đi chơi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Vương đi bộ trên đường Quốc lộ, thuộc bản Pọong 2, xã Hiền Kiệt, khi đi qua một cửa hàng thuốc Tân dược thì thấy không có người trong quầy thuốc và thấy 01 túi da màu nâu nên V nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, V tiến vào quầy thuốc lấy trộm chiếc túi da màu nâu và đi bộ ra ngoài đườngtheo hướng về UBND xã Hiền Kiệt. Tại đây, V đã xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, tuổi, địa chỉ để về xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn. Khi đi đến cống thoát nước thuộc bản Na Tuồng, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn thì Vương xuống xe, còn người đàn ông đã cho V đi nhờ, đi đâu V không biết. Lúc này, V lấy chiếc túi vừa trộm cắp được mở ra xem thì thấy bên trong có 8.900.000đ (Tám triệu chín trăm nghìn đồng) bao gồm nhiều tờ tiền mệnh giá khác nhau và các loại giấy tờ Căn cước công dân, thể bảo hiểm y tế, thẻ ngân hàng, bằng lái xe mô tô và một số hóa đơn bán hàng. Sau khi kiểm tra xong, V lấy tiền bỏ vào túi quần đang mặc, còn túi da và các loại giấy tờ V ném xuống sông. Sau đó, V đi bộ về nhà anh trai ở bản Thủy Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, V đưa 5.000.000đ (Năm triệu đồng) cho Trần Tuấn A (là anh trai V) nhờ cất giữ hộ. Số tiền còn lại 3.900.000đ (Ba triệu chín trăm nghìn đồng), V giữ trong người. Khi ra đầu thú thì V đồng thời giao nộp lại số tiền 3.900.000đ (Ba triệu chín trăm nghìn đồng) đã trộm cắp được. Ngày 03/3/2022, anh Trần Tuấn A đã đem số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng chẵn) mà V nhờ giữ hộ đến Công an huyện Quan Hóa giao nộp.
Vật chứng của vụ án: Số tiền 8.900.000đ (Tám triệu chín trăm nghìn đồng) là vật chứng của vụ án. Cơ quan CSĐT đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lục Thị Hoán.
Đối với: 03 căn cước công dân mang tên Lục Thị H, Lộc Thị Ơ, Lộc Văn M; 03 thẻ bảo hiểm y tế mang tên: Chị Lục Thị H, Lộc Đức T, Lộc Quang M; 01 bằng lái xe mô tô mang tên Lục Thị H; 03 thẻ ngân hàng mang tên Lục Thị H; 01 chùm chìa khoán và một số giấy tờ hóa đơn bán hàng khác, do bị cáo đã ném xuống sông, nên không thể truy tìm, chị H cũng không có yêu cầu bị cáo trả lại, nên không xem xét.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại đã nhận lại được tiền và không có yêu cầu gì.
Cáo trạng số 12/CT-VKS-QH ngày 20/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa truy tố bị cáo Trần Quốc V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Bị hại Lục Thị H trình bày: Tài sản của chị bị mất là tiền khoảng 10.000.000đ (Mười triệu đồng), chị không nhớ chính xác, vì đây là tiền bán hàng của chị, chị không kiểm đếm cụ thể, chị đồng ý số tiền 8.900.000đ (Tám triệu chín trăm nghìn đồng) như bị cáo khai báo là đúng, nay chị đã được nhận lại đủ số tiền 8.900.000đ. Đối với 03 căn cước công dân mang tên Lục Thị H, Lộc Thị Ơ, Lộc Văn M; 03 thẻ bảo hiểm y tế mang tên: Lục Thị H, Lộc Đức T, Lộc Quang M; 01 bằng lái xe mô tô mang tên Lục Thị H; 03 thẻ ngân hàng mang tên Lục Thị H; 01 chùm chìa khoán và một số giấy tờ hóa đơn bán hàng khác, chị không yêu cầu bị cáo phải trả lại, không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố ban đầu đối với bị cáo và đề nghị:
Về điều luật áp dụng: Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Về tội danh: Tuyên, bị cáo Trần Quốc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 28-30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định.
Về vật chứng, đề nghị: Không xét.
Về trách nhiệm dân sự: Không xét.
Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.
Tại phiên tòa, Bị cáo nhận tội, không thay đổi lời khai, không bổ sung thêm gì, không khai báo thêm tình tiết mới; không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS; đồng ý với ý kiến của Bị hại.
Lời nói sau cùng, bị cáo thấy việc làm của mình là sai, rất ân hận về hành vi trái trái của bản thân, xin nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất có thể, để có điều kiện sửa chữa lỗi lầm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; ý kiến của Kiểm sát viên; ý kiến của bị hại và lời nói sau cùng của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quan Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác luôn chấp hành tốt, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Hành vi phạm phạm tội của bị cáo: Chiều ngày 01/3/2022, bị cáo đi nhờ xe của một người không quen biết từ xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn sang xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa để chơi. Tại xã Hiền Kiệt, bị cáo đi bộ trên đường, đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì bị cáo nhìn thấy của hàng bán thuốc Tân dược của chị Lục Thị H không có người trong quầy và thấy 01 túi da màu nâu để, bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp, bị cáo đi vào trong quầy bán thuốc lấy trộm chiếc túi da màu nâu và đi bộ ra ngoài và xin đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết đi về huyện Quan Sơn. Khi đi đến địa phận xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn thì bị cáo xuống xe, kiểm tra túi da màu nâu vừa trộm cắp được, trong túi có 8.900.000đ, căn cước công dân, thẻ bảo hiểm y tế, bằng lái xe, thể ngân hàng và các hóa đơn bán hàng, bị cáo lấy tiền bỏ vào túi, các giấy tờ và túi da màu nâu thì ném xuống sông, rồi đi về nhà anh trai. Tại nhà Trần Tuấn A (là anh trai bị cáo, bị cáo nhờ Trần Tuấn A cầm hộ 5.000.000đ) còn lại bị cáo giữ. Khi phát hiện bị mất túi da màu nâu đựng tiền và giấy tờ thì chị H đã kiểm tra camera quan sát của gia đình phát hiện 01 thanh niên đã trộm cắp tài sản của chị và chị đã báo Công an xã Hiền Kiệt giải quyết. Đến 12 giờ ngày 02/3/2022 thì Trần Quốc V đến Công an xã Hiền Kiệt đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với báo cáo mà chị Lục Thị H đã trình báo cơ quan chức năng. Mục đích bị cáo trọm cắp tài sản để tiêu xài cá nhân, không nhằm mục đích nào khác. Việc bị cáo trộm cắp tài sản chỉ mình bị cáo thực hiện, không nói cho ai biết, không có đồng phạm khác.
Tại bản án số 20/2019/HS-ST ngày 17/9/2019, TAND huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, đã xử phạt Trần Quốc V 17 (Mười bảy) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án này bị cáo đã bị áp dụng tình tiết tái phạm. Ngày 17/10/2020 bị cáo chấp hành xong bản án ngày 17/9/2019. tính đến ngày bị cáo lại phạm tội là 01/3/2022 thì bị cáo chưa được xóa án tích.
Như vậy, với hành vi trộm cắp số tiền 8.900.000đ của chị Lục Thị H, nhân thân, tiền án của bị cáo, đã thỏa mãn các quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Phù hợp với Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[3] Tính chất vụ án: Tính chất vụ án là nghiêm trọng. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng với ý thức xem thường pháp luật, bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, đã trộm cắp tài sản của người khác, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, đã gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, thì bị cáo luôn thành khẩn khai báo nhận tội, ăn năn hối cải và ra đầu thú. Do đó, HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng bị cáo lại có nhân thân xấu (Đã bị Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa xét xử 03 lần (05/3/2014; 28/11/2027 và 17/9/2019 đều về tội „Trộm cắp tài sản” và tuyên án tù giam). Vì vậy, để phù hợp với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải lên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây.
[5] Về hình phạt: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử quyết định dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để răn đe, phòng ngừa và để cải tạo bị cáo thành người công dân có ích. Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội. Vì vậy, HĐXX chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát.
Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Do đó, HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận đủ số tiền bị mất, không yêu cầu gì thêm. Nên không xét.
[7] Vật chứng trong vụ án:
Đối với số tiền 8.900.000đ (Tám triệu chín trăm nghìn đồng chẵn), Cơ quan CSĐT đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lục Thi H. HĐXX chấp nhận.
Đối với các giấy căn cước công dân, thể bảo hiểm y tế, bằng lái xe, thẻ ngân hàng và các hóa đơn bán hàng, chìa khóa, đều không thu giữ được, đồng thời thì bị hại có đơn không yêu cầu giải quyết, nên HĐXX không xét.
[8] Về án phí: Bị cáo có tội, nên HĐXX buộc bị cáo phải nộp án phí HSST.
[9] Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo; Bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.
Vì các lẽ trên:
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự
Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Hình phạt: Xử phạt Bị cáo Trần Quốc V 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (02/3/2022) Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng: Đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
Án phí: Áp dụng khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1, điều 23, điều 26, điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
Buộc bị cáo Trần Quốc V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
Kháng cáo, Kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 332, điều 333 và điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Án xử công khai; Có mặt bị cáo và Bị hại; Bị cáo, Bị hại cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án căn cứ điều 30 luật Thi hành án dân sự
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2022/HS-ST
Số hiệu: | 10/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quan Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về