Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2022/TLST-HS ngày 11/02/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 25/02/2022, đối với:

- Bị cáo Đặng Văn Phước B, sinh ngày 02/4/1998, tại: Quảng Nam; nơi cư trú: thôn Câu Lâu Đ, xã Duy Ph, huyện Duy X, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: Không biết chữ; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam; con bà Đặng Thị Th, sinh năm 1967. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 28/6/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Ngày 05/3/2021, bị Công an xã Điện Minh, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/12/2021, chuyển sang tạm giam từ ngày 23/12/2021 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Anh Huỳnh Văn T, sinh năm 2000. Địa chỉ: Tổ 20A, thôn Phước Trung, xã Cẩm Kim, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đặng Thị Th, sinh năm 1967. Địa chỉ: Thôn Câu Lâu Đ, xã Duy Ph, huyện Duy X, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

2. Ông Nguyễn Ngọc Ng, sinh năm 1962. Địa chỉ: Khối phố XT3, thị trấn Nam Ph, huyện Duy X, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 16/12/2021, Đặng Văn Phước B mặc áo khoác jean, đội mũ lưỡi trai màu đen, điều khiển xe mô tô BKS 92F1-235.72 đến xã Cẩm Kim, thành phố Hội An với mục đích là tìm kiếm tài sản để thực hiện hành vi trộm cắp . Đến 09 giờ cùng ngày, B chạy xe ngang qua nhà anh Huỳnh Văn T thấy không có ai ở nhà, B để xe ngoài đường rồi đi bộ vào sân, leo lên 03 (ba) cây cau trong hiên nhà anh T hái 03 (ba) buồng cau. Sau khi hái trộm cau, B đi vào góc nhà bên phải tìm thấy một bao tải màu vàng nên mang ra để đựng cau. Lúc này, B quan sát thấy trước nhà có gắn camera ghi hình nên B đột nhập vào trong nhà qua cửa chính. B vào gian nhà ở rồi băng qua gian nhà thờ; do đóng cửa nên trong nhà tối, B lấy điện thoại di động Samsung Galaxy A9 màu xanh đen mang theo bật chế độ đèn pin soi đường tìm tài sản trộm cắp nhưng không thấy. Sau đó, B quay lại gian nhà ở, thấy ở góc phải tầng một có 01 (một) dàn máy vi tính hiệu AOC màu đen (gồm:

01 màn hình 21 inch và 01 thùng máy) và 01 (một) điện thoại di động Iphone 6S màu bạc để gần dàn máy vi tính. B lấy chiếc điện thoại di động trên bỏ vào túi quần phía trước đang mặc, rồi lần lượt khiêng thùng máy vi tính và màn hình ra để ở bụi chuối phía sau nhà anh T. Sau đó, B quay trở vào nhà anh T và đi lên tầng 2 mở cửa phòng ngủ tiếp tục tìm kiếm tài sản nhưng không có gì. B quay trở lại bụi chuối phía sau nhà anh T lấy dàn máy vi tính nhưng thấy dàn máy vi tính cồng kềnh, chở đi dễ bị người dân phát hiện nên B để lại. Nhưng do lo sợ máy tính có lưu trữ hình ảnh camera ghi lại hình ảnh B đột nhập vào nhà anh T trộm cắp tài sản, nên B dùng cây sắt nhỏ để gần bụi chuối đập vỡ màn hình và thùng máy tính rồi mang bao tời có chứa 03 (ba) buồng cau ra xe để chạy về nhà. Trên đường đi, B vứt cây sắt ở đâu không nhớ rõ và bán 03 (ba) buồng cau cho một thanh niên đi đường không rõ lai lịch với giá 100.000 đồng.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 50/KL-ĐGTS ngày 22/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Hội An xác định: Tổng giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp tại nhà anh Huỳnh Văn T là 4.660.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm, sáu mươi ngàn đồng), trong đó 01 điện thoại Iphone 6S trị giá 1.300.000 đồng, 01 dàn máy vi tính hiệu AOC trị giá 2.910.000 đồng, 03 buồng cau tươi trị giá 450.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSHA - HS ngày 11/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Đặng Văn Phước B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi lượng hình, đề nghị xem xét những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo đang chấp hành bản án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng lại phạm tội mới nên thuộc trường hợp phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Từ những phân tích, đánh giá như trên, đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Phước B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Đặng Văn Phước B từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của tội “Trộm cắp tài sản” bị xét xử hôm nay và hình phạt tù của Bản án số 20/2021/HS-ST ngày 28/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đã tuyên phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án (28/6/2021).

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự; Tuyên buộc bị cáo Đặng Văn Phước B phải bồi thường cho anh Huỳnh Văn T số tiền là 2.390.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý vật chứng của vụ án như Cáo trạng đã đề nghị.

Bị cáo thống nhất với tội danh; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị và không có ý kiến tranh luận. Bị cáo đã nhận biết sai trái, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hội An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Đặng Văn Phước B khai nhận: Vào lúc 09 giờ, ngày 16/12/2021, bị cáo vào nhà anh Huỳnh Văn T ở xã Cẩm Kim, Hội An khi không có anh T ở nhà và đã thực hiện hành vi trộm cắp 03 buồng cau, 01 dàn máy vi tính hiệu AOC màu đen (Gồm: 01 màn hình 21 inch, 01 thùng máy), 01 điện thoại di động Iphone 6S màu bạc. Sau khi trộm cắp được tài sản, bị cáo bán 03 buồng cau lấy tiền tiêu xài, điện thoại bị cáo giữ lại sử dụng, đối với 01 dàn máy vi tính, bị cáo sợ bị phát hiện nên đã đập phá dẫn đến bị hư hỏng.

[3] Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy phù hợp. Hội đồng xét xử có căn cứ khẳng định: Bị cáo Đặng Văn Phước B đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Huỳnh Văn T có giá trị là 4.660.000 đồng là phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng số 14/CT-VKSHA - HS ngày 11/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An truy tố bị cáo Đặng Văn Phước B là đúng người, đúng tội.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Bị cáo Đặng Văn Phước B đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học răn đe, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhằm có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Hành vi của bị cáo không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh trật tự địa phương. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo trong vụ án thì thấy: Trong vụ án này bị cáo tuy phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nay phạm tội mới nên thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, vào ngày 05/3/2021 bị cáo Đặng Văn Phước B còn bị Công an xã Điện Minh, thị xã Điện Bàn xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” đến nay chưa thi hành quyết định xử phạt và chưa hết thời hiệu là thuộc trường hợp có tiền sự. Hội đồng xét xử nhận định rằng, bị cáo Đặng Văn Phước B có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, một lần bị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng không tu dưỡng, rèn luyện bản thân, siêng năng lao động mà còn tiếp tục phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo.

[6] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này bị cáo Đặng Văn Phước B chưa chấp hành xong hình phạt 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 20/2021/HS- ST ngày 28/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, người bị hại anh Huỳnh Văn T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền thiệt hại do hành vi trộm cắp của bị cáo gây ra là 2.390.000 đồng, các tài sản khác đã nhận lại được và không yêu cầu gì thêm. Xét, yêu cầu của anh T về việc buộc bị cáo B bồi thường số tiền thiệt hại 2.390.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật nên cần chấp nhận yêu cầu và buộc bị cáo Đặng Văn Phước B bồi thường số tiền này.

[8] Về xử lý vật chứng, tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hội An thu giữ các vật chứng liên quan đến vụ án. Sau khi điều tra xác minh đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu anh Huỳnh Văn T 01 (một) bộ máy tính hiệu AOC màu đen (hư hỏng một phần do bị đập phá); 01 (một) điện thoại di động Iphone 6S màu bạc; trả lại cho bà Đặng Thị Th 01 (một) xe mô tô hiệu Dream II BKS: 92F1- 235.72 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với các vật chứng là 01 (một) áo khoác jean và 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen, không còn giá trị nên cần tịch thu, tiêu hủy; 01 điện thoại Samsung Galaxy A9 mà bị cáo dùng làm phương tiện để trộm cắp tài sản cần tịch thu hóa giá sung Ngân sách nhà nước. Đối với 01 (một) USB chứa dữ liệu điện tử hình ảnh trích sao đoạn camera ghi hình B đột nhập vào nhà anh T ngày 16/12/2021 thì cần tiếp tục lưu kèm hồ sơ vụ án.

[9] Những vấn đề có liên quan đến vụ án:

- Trong vụ án này, bị cáo đã có hành vi dùng cây đập phá dàn máy vi tính của anh Huỳnh Văn T gây thiệt hại 1.940.000 đồng, tại thời điểm thực hiện hành vi này, tội trộm cắp tài sản đã hoàn thành nên không đề cập xử lý.

- Đối với bà Đặng Thị Th đã cho bị cáo mượn xe mô tô BKS 92F1-235.72 sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 16/12/2021 nhưng bà Đặng Thị Th không biết nên không xử lý là có căn cứ.

- Đối với người mua 03 (ba) buồng cau tươi mà Đặng Văn Phước B trộm cắp, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hội An tách riêng để điều tra, xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

[10] Về án phí:

- Về án phí hình sự: Bị cáo Đặng Văn Phước B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Văn Phước B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn Phước B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn Phước B 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành án được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 17/12/2021.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt của tội “Trộm cắp tài sản” trên với hình phạt tại Bản án số 20/2021/HS-ST ngày 28/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam buộc bị cáo Đặng Văn Phước B phải chấp hành hình phạt chung là 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành án được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 17/12/2021.

Về trách nhiệm Dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, Điều 585, Điều 589 của Bộ luật dân sự - Buộc Đặng Văn Phước B bồi thường cho anh Huỳnh Văn T số tiền 2.390.000 đồng (Hai triệu, ba trăm chín chục nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả những khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 (một) áo khoác jean và 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen khi án có hiệu lực pháp luật.

Tuyên tịch thu hóa giá, sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại Samsung Galaxy A9 của bị cáo khi án có hiệu lực pháp luật.

(Các vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Hội An theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/02/2022).

Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bị cáo Đặng Văn Phước B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Tuyên bị cáo Đặng Văn Phước B phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (10/3/2022).

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

894
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hội An - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;