Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 101/2023/HS-ST NGÀY 14/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở TAND Thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số : 83/ 2023/ TLST-HS ngày 17/02/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2023/QĐXXST-HS ngày 28/02/2023 đối với bị cáo:

- Đỗ Thị Bích T, sinh năm 1996 tại tỉnh Đ. Nơi cư trú: ấp 5, xã Xuân Tâm, huyện X, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Đỗ Hùng S (còn sống) và bà Võ Thị T (còn sống); Có chồng: Nguyễn Tài T; Có 04 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 03/01/2023 theo lệnh bắt bị can để tạm giam số 941 ngày 15/9/2022 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đ. Đến ngày 03/01/2023 được cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Dương Quốc N, sinh ngày 18/04/2006.

Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Phan Thị H, sinh năm 1986. Cùng trú: Thôn Tân Kiều, xã Nhơn Mỹ, huyện A, tỉnh B. Tạm trú: Tổ 34, khu phố 5A, phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 08/4/2021, Đỗ Thị Bích T đi bộ đến khu vực phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đ để tìm thuê phòng trọ. Khi đi qua dãy phòng trọ tại số nhà E927, tổ 33, khu phố 5A, phường Long Bình, thành phố B thì T phát hiện phòng trọ số 1 không khóa cửa, trong phòng có em Dương Quốc N ( sinh ngày 18/4/2006) đang nằm ngủ trên võng gần cửa ra vào và có để 01 điện thoại di động hiệu Samsung A 70 trên ngực nên T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. Sau khi quan sát sung quanh thấy không có người nên T đã đi vào lấy trộm chiếc điện thoại trên giấu vào trong túi áo khoác rồi đi đến tiệm sửa chữa điện thoại và cầm đồ “ D” tại số 464, khu phố 5A, phường Long Bình, thành phố B của anh Trần Duy T làm chủ để cầm chiếc điện thoại trên. Tuy nhiên, do T không mở được mật khẩu của điện thoại nên anh T không đồng ý nhận cầm. Sau đó, trên đường đi bộ về nhà T gặp và cầm điện thoại cho 01 nam thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 1.000.000đ. Sau khi bị mất trộm điện thoại, chị Phan Thị H là mẹ ruột của N đã kiểm tra Camera an ninh của dãy phòng trọ thì phát hiện T đi vào dãy phòng trọ. Đến khoảng 19 giờ ngày 09/4/2021 khi đang đi trên đường thì chị H phát hiện T giống với người đã đi vào dãy phòng trọ đã bị Camera an ninh ghi hình nên chị H đã trình báo Công an phường Long Bình mời T về làm việc và chuyển hồ sơ đến cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B để xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 271/KL-HĐĐGTS ngày 10/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận “ 01 điện thoại di động hiệu Samsung A70 có trị giá 4.543.000đ (bốn triệu năm trăm bốn mươi ba nghìn đồng)”.

Về vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A70 do T đã bán cho một người thanh niên không rõ lai lịch nên không thu hồi được.

Về dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 4.543.000đ.

Tại cáo trạng số 90/CT-VKSBH, ngày 10/02/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Đỗ Thị Bích T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa bị cáo trình bày: Bị cáo đồng ý với bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì đang nuôi 04 con nhỏ, cha bị tai biến, mẹ bị nhồi máu cơ tim không ai chăm sóc.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Đỗ Thị Bích T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét về tình tiết tăng nặng: Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của em Dương Quốc N vào ngày 08/4/2021 (Dương Quốc N sinh ngày 18/8/2006) thì em N chưa tròn 16 tuổi. Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đang nuôi con nhỏ; Đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại; Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và được bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt; Cha bị cáo đang bị tai biến và mẹ bị nhồi máu cơ tim. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị hội đồng xét xử không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội và xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ sức răn đe và phòng ngừa chung.

Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 06 đến 08 tháng cải tạo không giam giữ và trừ đi 01 ngày bị cáo đã bị tạm giam.

Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, ngày 08/4/2021, tại khu vực nhà trọ số E927, tổ 33, khu phố 5A, phường Long Bình, thành phố B, Đỗ Thị Bích T đã có hành vi trộm cắp một điện thoại di động, hiệu Sam sung A70 có trị giá là 4.543.000đ (Bốn triệu năm trăm bốn mươi ba nghìn đồng) của bị hại Dương Quốc N, sinh ngày 18/4/2006 (bị hại N dưới 16 tuổi). Nên có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ và thực hiện hành vi phạm tội đối với người dưới 16 tuổi vi phạm quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại; Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và được bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt; Bị cáo đang nuôi 04 con nhỏ (con lớn sinh năm 2014 và con nhỏ nhất sinh năm 2021); Cha bị cáo đang bị tai biến và mẹ bị nhồi máu cơ tim. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng nên hội đồng xét xử không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội và xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ sức răn đe và thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo

.[5] Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét đề nghị của đại diện VKSND thành phố B phù hợp với nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm i khoản 1 Điều 52 và Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo: Đỗ Thị Bích T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Bích T 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giam 01 ngày (cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ). Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo Đỗ Thị Bích T nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

+ Giao bị cáo Đỗ Thị Bích T cho Ủy ban nhân dân xã Xuân Tâm, huyện X, tỉnh Đ giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

+ Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Đỗ Thị Bích T.

2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2023/HS-ST

Số hiệu:101/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;