Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 101/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 08 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

90/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 07 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 08 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn D, sinh ngày 01/01/1979, tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm 5, xã Phúc Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh, tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; con ông Trần Văn Hùng (đã chết) và bà Trần Thị Đào ( đã chết); có vợ: Nguyễn Thị D và 03 con; tiền án: ngày 28/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 08 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/05/2019; ngày 25/03/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “ trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/03/2021; tiền sự: không; nhân thân: ngày 26/4/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 24 tháng tù về tội “ trộm cắp tài sản của công dân”; ngày 27/01/1999 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 36 tháng tù về tội “ trộm cắp tài sản của công dân”; ngày 31/5/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 05 năm tù về tội “ trộm cắp tài sản”; ngày 21/9/2007 bị Tòa án nhân dân quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “ trộm cắp tài sản”; ngày 25/6/2015 bị Công an huyện Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “ trộm cắp tài sản”;

ngày 18/03/2018 bị Công an xã Phúc Thành xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “ trộm cắp tài sản”; tạm giữ, tạm giam: từ ngày 28/04/2022 đến nay. Bị cáo (Có mặt) Người bào chữa cho bị cáo:

Bà Vũ Thị H – Trợ giúp viên pháp lý của Chi nhánh số 1 thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An.

Bị hại: Chị Hà Thị H1, sinh năm 1985 ( vắng mặt).

Nơi cư trú: Xóm 4, xã Bắc Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1978 (có mặt).

Nơi cư trú: Xóm 5, xã Phúc Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 07 giờ 10 phút ngày 28/04/2022, tại khu vực xóm Tân An, xã Hồng Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an xã Hồng Thành phát hiện, bắt quả tang Trần Văn D điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX màu đỏ đen biển kiểm sát 37P1 – 658.45 đi từ nhà Trần Văn D ở xóm 5, xã Phúc Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An đi đến nhà một người đàn ông tên Mạnh ở xã Phúc Thành, huyện Y. Khi Trần Văn D đi đến khu vực ngã tư Hồng Thành (gần Ủy ban nhân dân xã Hồng Thành), Trần Văn D dừng xe mô tô lại trước quán ăn Bầu Đào đối diện với Trường mầm non xã Hồng Thành để ăn sáng thì thấy chị Hà Thị H1 mở cốp xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe VISION màu trắng mang biển kiểm soát 37P1 – 764.54, lấy ra một chiếc ví màu đỏ rồi lấy một ít tiền trong ví bỏ vào trong người, sau đó bỏ lại chiếc ví vào trong cốp xe và đi vào trường mầm non xã Hồng Thành. Thấy trong ví chị H1 có nhiều tiền nên Trần Văn D nảy sinh ý định trộm cắp chiếc ví. Trần Văn D quan sát không thấy ai nên đi đến mở cốp xe mô tô của chị H1 ra (khi Trần Văn D mở cốp thì thấy cốp xe mô tô này không khóa chốt) rồi lấy chiếc ví màu đỏ bên trong chiếc ví có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu xanh, tiền và một số giấy tờ khác đều mang tên Hà Thị H1. Trần Văn D lấy chiếc điện thoại di động từ trong ví bỏ vào túi áo bên trái của chiếc áo khoác nắng màu đen D đang mặc trên người, còn chiếc ví màu đỏ, bên trong có tiền và một số giấy tờ tùy thân của chị Hà Thị H1 thì D bỏ vào trong người. Sau khi lấy trộm tài sản nói trên, Trần Văn D nhanh chóng đi bộ lại vị trí chiếc xe mô tô của mình rồi điều khiển xe đi về nhà nhưng bị tổ công tác Công an huyện Y phát hiện và truy đuổi. Khi D chạy đến khu vực xóm 1, xã Thọ Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện Y bắt giữ, thu giữ trong túi áo bên trái của chiếc áo khoác nắng mà D đang mặc trên người 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu xanh, đã qua sử dụng; thu giữ phía dưới bụng tại vị trí thắt lưng quần mà D đang mặc trên người 01 (một) chiếc ví nhãn hiệu Fashion classic, loại ví da màu đỏ, bên trong ví có: 50.800.000 (năm mươi triệu tám trăm nghìn đồng) tiền mặt, 01 (một) thẻ căn cước công dân, 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế, 01 (một) giấy phép lái xe (hạng A1), 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng BIDV, tất cả đều mang tên Hà Thị H1. Sau đó, lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và đưa Trần Văn D về trụ sở làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 177/KL-KTHS (DD3-TL) ngày 05/05/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “ Số tiền 50.800.000 (năm mươi triệu tám trăm nghìn đồng) (có bảng kê mệnh giá, mã số hiệu kèm theo) gồm 88 (tám mươi tám) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), 29 (hai mươi chín) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), 10 (mười) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng) gửi giám định đều là tiền thật.” Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 04/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Y kết luận:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu xanh, số IMEI 1: 864588049214157, số IMEI 2: 864588049214140, đã qua sử dụng vẫn còn nguyên vẹn được mua mới vào năm 2020, ngày 28/5/2022 có giá trị: 3.000.000đ (ba triệu đồng).

- 01 (một) chiếc ví nhãn hiệu Fashion Classic màu đỏ, kích thức 15cm, rộng 10cm, dày 02cm, đã qua sử dụng. Chiếc ví được mua mới và năm 2021, ngày 28/4/2022 có giá trị 100.000đ (một trăm nghìn đồng).” * Vật chứng: Thu giữ của Trần Văn D.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu xanh, số IMEI 1:

864588049214157, số IMEI 2: 864588049214140.

- 01 (một) chiếc ví nhãn hiệu Fashion Classic màu đỏ.

- Số tiền 50.800.000 (năm mươi triệu tám trăm nghìn đồng), tiền do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành.

- 01 (một) thẻ căn cước công dân, 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế, 01 (một) giấy phép lái xe (hạng A1), 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng BIDV - 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX màu đỏ đen biển kiểm sát 37P1 – 658.45 có số khung 3857KY020057, số máy JAS2E0019626.

* Xử lý vật chứng:

( Các tài sản trên đã qua sử dụng) Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Y đã trả lại cho chị Hà Thị H1 – chủ sở hữu hợp pháp các tài sản gồm:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu xanh, số IMEI 1:

864588049214157, số IMEI 2: 864588049214140, đã qua sử dụng.

- 01 (một) chiếc ví nhãn hiệu Fashion Classic màu đỏ, đã qua sử dụng.

- Số tiền 50.800.000 (năm mươi triệu tám trăm nghìn đồng), tiền do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành, đã qua sử dụng.

- 01 (một) thẻ căn cước công dân, 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế, 01 (một) giấy phép lái xe (hạng A1), 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng BIDV.

Đi với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX màu đỏ đen biển kiểm sát 37P1 – 658.45 có số khung 3857KY020057, số máy JAS2E0019626, đã qua sử dụng đang được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Y, tỉnh Nghệ An.

* Về phần dân sự:

Bị hại chị Hà Thị H1 đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS-YT, ngày 14 tháng 07 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố Trần Văn D về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Văn D từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập nên không áp dụng. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên không xem xét.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Trả lại 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX màu đỏ đen biển kiểm sát 37P1–658.45, số khung 3857KY020057, số máy JAS2E0019626 (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị D. ¬ Án Phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Người bào chữa: Nhất trí tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo. Tuy nhiên bị cáo thành khẩn khai báo, không có văn hóa, nhận thức pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa mình.

Bị cáo Trần Văn D đề nghị Hội đồng xét xử cho mức án nhẹ nhất để sớm về với cộng đồng và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong ngày 28/04/2022, Trần Văn D đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc ví màu đỏ bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh và tiền mặt 50.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 53.900.000 đồng của chị Hà Thị H1, trú tại xóm 4, xã Bắc Thành, huyện Y.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở xác định bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, giá trị 53.900.000 đồng.

Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm.

Bị cáo trộm cắp tài sản có giá trị 53.900.000 đồng và phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Bị cáo có 02 tiền án, nhân thân rất xấu nhưng không chịu tu dưỡng bản thân, không chu chí làm ăn mà lợi dụng sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản, bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn nên phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên: bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Vì vậy khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng.

[4] Về Dân sự:

Bị hại chị Hà Thị H1 đã nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đúng theo quy trình, thủ tục, thẩm quyền do Bộ luật tố tụng Hình quy định là hợp pháp.

[6] Về vật chứng:

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y trả 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu xanh, số IMEI 1: 864588049214157, số IMEI 2:

864588049214140; 01 (một) chiếc ví nhãn hiệu Fashion Classic màu đỏ;

50.800.000 đồng; 01 (một) thẻ căn cước công dân; 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế;

01 (một) giấy phép lái xe (hạng A1); 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng BIDV cho chủ sở hữu là chị Hà Thị H1 là có căn cứ, đúng pháp luật.

01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX màu đỏ đen biển kiểm sát 37P1–658.45, số khung 3857KY020057, số máy JAS2E0019626 (đã qua sử dụng) là phương tiện phạm tội nhưng bị cáo sử dụng trái phép nên cần trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị D.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trần Văn D 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng về tội “Trộm cắp tài sản” . Thời hạn tù tính từ ngày 28/04/2022.

- Vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Trả 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX màu đỏ đen biển kiểm sát 37P1–658.45, số khung 3857KY020057, số máy JAS2E0019626 (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị D. ¬ (Chi cục thi hành án dân sự huyện Y quản lý ngày 26/07/2022) -Án Phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2022/HS-ST

Số hiệu:101/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;