Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 101/2021/HS-ST NGÀY 22/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 10 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90 / 2021/ HS- ST ngày 08/ 10/ 2021 , đối với bị cáo Nguyễn Văn V, sinh năm 1977. Tên gọi khác: Không.

HKTT và chỗ ở : Thôn Đ, xã B, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12.Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1953.Con bà: Hoàng Thị V, sinh năm 1957. Bị caó chưa có vợ, con.

Nhân thân:

+) Năm 1994 bị Công an huyện Lục Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

+) Năm 2001 bị Công an huyện Lục Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” và lập hồ sơ đưa đi cơ sở giáo dục;

+) Năm 2009 bị Công an huyện Lục Ngạn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

+) Năm 2010 bị Chủ tịch UBND huyện Lục Nam ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

+) Bản án số 94/2013/HSPT ngày 27/6/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 tháng tù, về tội “trộm cắp tài sản”. Ngày 04/3/2014, V chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 01/11/2013, V chấp hành xong án phí HSST và HSPT.

- Tiền án:

+) Bản án số 323/2014/HSPT ngày 11/12/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm 6 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản 21.370.000 đồng). Ngày 10/12/2016, V chấp hành xong hình phạt tù. Hiện chưa chấp hành án phí, tiền phạt.

+) Bản án số 15/2020/HSST ngày 24/4/2020, Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản 506.000 đồng). Ngày 15/12/2020, V chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: Không.

Bị caó đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/7/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang (Có mặt ).

Bi ̣haị : Anh Nguyễn Văn H- Sinh năm 1986 ( Vắng mặt ).

Nơi cư trú: Thôn P, xã L, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

Chị Hà Thị B- Sinh năm 1979( Vắng mặt ).

Nơi cư trú: Tổ dân phố G, TT. Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau : Khoảng 12 giờ ngày 27/ 7/ 2021, Nguyễn Văn V nảy sinh ý định đi quanh khu vực thị trấn Đ, huyện Lục Nam xem có nhà nào sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi V đi bộ qua trước cửa nhà ông Giáp Văn B, sinh năm 1952 ở tổ dân phố H, thị trấn Đ, huyện Lục Nam thì phát hiện trên vỉa hè trước cửa nhà ông Bội có dựng nhiều xe mô tô. Quan sát không có người, V tiến lại và trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Super Dream, màu nâu, BKS 99L1- 4*** của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1986 ở Thôn P, xã L, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang ( Là thợ thi công điện nước). Sau đó, V dắt chiếc xe mô tô đến khu vực cổng chợ G, thị trấn Đ, huyện Lục Nam rồi giật dây điện dưới ổ khóa và đạp nổ xe mô tô. V điều khiển xe mô tô trộm cắp được đi theo đường Quốc lộ 31 hướng về thị trấn C, huyện Lục Ngạn. Khi đi qua cửa hàng bán gạo của chị Hà Thị B, sinh năm 1979 ở Tổ dân phố G, thị trấn Đ, huyện Lục Nam, V thấy không có người trông coi nên đã dừng xe và đi vào trộm cắp 50kg gạo Khang dân đựng trong 01 bao dứa màu xanh sau đó điều khiển xe đi về thị trấn C, huyện Lục Ngạn. Khi đến thị trấn C, V khai bán bao gạo trộm cắp được cho một người phụ nữ không quen biết được 400.000 đồng. Tiếp đó, V tháo BKS 99L1- 4*** của xe mô tô ra rồi vứt vào sọt rác trước cổng Ủy ban nhân dân thị trấn C. Sau khi phát hiện tài sản bị trộm cắp , anh H và chị B làm đơn trình báo . Ngày 31/ 7/ 2021, V đến Công an huyện Lục Nam đầu thú và giao nộp: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, xe không có biểm kiểm soát, có số máy 009**** .

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 02/ 8/ 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Super Dream, màu sơn nâu, BKS 99L1- 4*** trị giá 9.800.000 đồng .

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 02/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam, kết luận: 01 bao gạo Khang dân có khối lượng 50kg, trị giá 650.000 đồng .

Đối với chiếc BKS 99L1- 4***, V khai vứt ở sọt rác tại khu vực cổng Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện Lục Ngạn, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy. Còn người phụ nữ mua bao gạo của V, V khai không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu sơn nâu cho anh Nguyễn Văn H. Anh H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị caó bồi thường. Chị Hà Thị B yêu cầu V phải bồi thường cho chị số tiền 650.000 đồng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Cáo trạng số 90 /CT- VKS ngày 06/ 10/ 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố Nguyễn Văn V về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm g, khoản 2, điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố bị cáo là đúng người , đúng tội, đúng quy định pháp luật, không oan. Bị cáo khai nhận : Khoảng hơn 12 giờ ngày 27/7/2021, bị cáo đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Super Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 99L1- 4***ở tổ dân phố H, thị trấn Đ, huyện Lục Nam . Khi điều khiển xe trộm cắp đi qua cửa hàng bán gạo ở Tổ dân phố G, thị trấn Đ, bị cáo tiếp tục trộm cắp 01 bao gạo Khang dân để lên xe và đi đến thị trấn C mục đích tìm mua ma túy để sử dụng do bị cáo nghiện ma túy. Bị cáo bán bao gạo trộm cắp được c ho một người phụ nữ không quen biết được 400.000 đồng và sử dụng mua ma túy sử dụng hết. Chiếc BKS 99L1- 4*** của xe mô tô bị cáo đã vứt vào sọt rác trước cổng Ủy ban nhân dân thị trấn C. Bị cáo đồng ý Kết luận định giá tổng trị giá tài sản trộm cắp là 10.450.000 đồng, bị cáo cũng đồng ý bồi thường chị B 650.000 đồng.

Bị hại là anh Nguyễn Văn H vắng mặt tại phiên tòa, tại cơ quan điều tra trình bày : Khoảng hơn 12 giờ ngày 27/ 7/ 2021, anh H bị trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 99L1- 4*** ở tổ dân phố H, thị trấn Đ, huyện Lục Nam là tài sản của anh H; hiện anh H đã được Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô trên nên không yêu cầu gì. Chị Hà Thị B vắng mặt tại phiên tòa, tại cơ quan điều tra trình bày : Ngày 27/ 7/ 2021 chị B bị trộm cắp 50kg gạo Khang dân đựng trong 01 bao dứa màu xanh; chị B yêu cầu bị cáo bồi thường 650.000 đồng .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam sau khi đánh giá tính chất vụ án, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố đồng thời luận tội và đề nghị kết tội như sau: Bị caó có nhân thân và tiền án về tội "Trộm cắp tài sản", đã tái phạm chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên là trường hợp tái phạm nguy hiểm. Bị cáo thực hiện 02 lần hành vi phạm tội, mỗi lần thực hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần; bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là " Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ” và “ Đầu thú".

Đề nghị Hội đồng xét xử : Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự : Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “ Trộm cắp tài sản” ; xử phạt bị cáo V từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/ 7/ 2021. Bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản nên không phạt tiền bổ sung.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường chị Hà Thị B 650.000 đồng. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng : Bị cáo xin giảm hình phạt .

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam, Kiểm sát viên trong giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt các bị hại, tuy nhiên đã có lời khai tại hồ sơ vụ án và sự vắng mặt của bị hại không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án; do vậy Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bị hại là đúng quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ xác định tội: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố , phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, lời khai của bi ̣haị và các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử nhận định như sau : Khoảng hơn 12 giờ ngày 27/ 7/ 2021, bị cáo Nguyễn Văn V đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Honda, loại xe Super Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 99L1- 4*** của anh Nguyễn Văn H có trị giá 9.800.000 đồng và 01 bao gạo Khang dân khối lượng 50kg của chị Hà Thị B có trị giá 650.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 10.450.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm “ Trộm cắp tài sản” . Bị cáo có nhân thân và tiền án về tội "Trộm cắp tài sản", đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện 02 lần hành vi phạm tội, mỗi lần thực hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản nên là trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự cũng như luận tội và đề nghị kết tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng quy định pháp luật . Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự quy định và bảo vệ, xâm phạm đến trật tự xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an tại địa phương. Bị cáo đã tái phạm tội “ Trộm cắp tài sản ” nhưng vẫn tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này chứng tỏ bị cáo là người không chịu tu dưỡng bản thân, có ý thức coi thường pháp luật .Vì vậy cần thiết phải có hình phạt cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhât điṇ h tương xứng với tính chất và hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo; bảo đảm tác dụng giáo dục riêng và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[2.1]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ hình phạt : Bị cáo thực hiện 02 lần hành vi phạm tội, mỗi lần thực hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tình tiết giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đầu thú nên cần áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm hình phạt đối với bị cáo. Bi c̣ ao đang taṃ giam nên cân tiêp tuc̣ taṃ giam để đam bao thi hanh an.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Bi ao không có nghề nghiệp, tài sản nên không ap duṇ g hinh phaṭ bổ sung la phaṭ tiên .

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường chị Hà Thị B 650.000 đồng.

[5]. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm . Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật dân sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 03 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản ”, thời hạn tù tính từ ngày 31/ 7/ 2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo .

2.Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường chị Hà Thị B 650.000 đồng.

3.Án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực thi hành và có quyết định thi hành án, người phải thi hành án dân sự phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với khoản tiền chưa thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên bản án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2021/HS-ST

Số hiệu:101/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;