Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2022/TLST- HS, ngày 24 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn Đ, sinh ngày 07 tháng 6 năm 1991 tại thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối M, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N (đã chết) và bà Chu Thị S; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Ngày 27/3/2012, bị UBND huyện NĐ quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc (cai nghiện ma túy), đã chấp hành xong ngày 17/9/2012; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2021 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1980; địa chỉ: Khối T, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1971; địa chỉ: Khối Q, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

+ Chị Lê Thị T, sinh năm 1977; địa chỉ: Khối Q, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; có mặt.

- Người làm chứng: Chị Lê Thị N, sinh năm 1976; địa chỉ: Khối N, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 15 phút ngày 23/11/2021, Lê Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn xanh, BKS 37K1-0010 đi từ trang trại của anh Nguyễn Văn S để về nhà. Trên đường về, Đ đi đến khu vực Cầu Cao thuộc khối X, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An để mua bánh mỳ ăn sáng nhưng quán chưa mở cửa nên Đ quay về. Khi đi qua quán bán hoa HH của chị Đặng Thị H, thuộc khối N, thị trấn NĐ, huyện NĐ, Lê Văn Đ phát hiện trước cửa quán có 03 (ba) bó hoa được cuốn bên ngoài bằng giấy bìa carton không có ai trông coi nên Đ lấy 03 (ba) bó hoa này bỏ lên phía sau xe mô tô, rồi dùng dây thừng cột lại, sau đó Đ quay trở lại trang trại của anh Nguyễn Văn S cất giấu trong nhà kho. Đến 07 giờ 30 phút, ngày 24/11/2021, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Lê Văn Đ đã đến Công an huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình đồng thời giao nộp 03 bó hoa gồm 400 cành hoa cúc vàng, 100 cành lá cọ, 10 cành hoa lan vũ nữ, 100 cành hoa hồng cam đỏ, 50 cành hoa hồng vàng chùa, 24 cành hoa lan trắng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 28 ngày 29/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Nam Đàn kết luận: 400 cành hoa cúc vàng, trị giá: 2.000.000 đồng; 100 cành lá cọ, trị giá: 150.000 đồng; 10 cành hoa lan vũ nữ, trị giá:

270.000 đồng; 100 cành hoa hồng cam đỏ, trị giá: 420.000 đồng; 50 cành hoa hồng vàng chùa, trị giá: 210.000 đồng; 24 cành hoa lan trắng, trị giá: 164.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Lê Văn Đ đã chiếm đoạt là 3.214.000 đồng (ba triệu hai trăm mười bốn nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 13/CT-VKSNĐ, ngày 21/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An truy tố Lê Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn giữ quyền công tố, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo mức án từ 06 đến 08 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 24/11/2021. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị hại chị Đặng Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn S vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lê Thị T không có yêu cầu gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu nên xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Đàn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa chị Đặng Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn S vắng mặt vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt, người làm chứng vắng mặt không có lý do và đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ vụ án. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn Đ đã khai nhận hành vi của mình phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 04 giờ 15 phút ngày 23/11/2021, tại quán bán hoa HH của chị Đặng Thị H thuộc khối N, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An, Lê Văn Đ đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 400 cành hoa cúc vàng, 100 cành lá cọ, 10 cành hoa lan vũ nữ, 100 cành hoa hồng cam đỏ, 50 cành hoa hồng vàng chùa, 24 cành hoa lan trắng với tổng trị giá 3.214.000 đồng (ba triệu hai trăm mười bốn nghìn đồng). Hành vi của Lê Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng số 13/CT-VKSNĐ, ngày 21/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Đây là vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự; tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có tài sản riêng gì nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn xanh, BKS 37K1-0010, đây là tài sản của anh Nguyễn Văn S nhưng anh Nguyễn Văn S không biết bị cáo sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Nam Đàn đã trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Trong vụ án này anh Nguyễn Văn S, chị Lê Thị T (chủ trang trại), quá trình điều tra xác định anh S, chị T không biết việc Lê Văn Đ cất giấu tài sản trộm cắp được trong nhà kho của gia đình, do đó không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2021.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;