Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 08/2023/HS-PT NGÀY 17/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 119/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn Cường do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2022/HS-ST ngày 09-11-2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn Cường, sinh năm 1991 tại tỉnh Bến Tre; đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp An Định 2, xã An Ngãi Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp An Định 1, xã An Ngãi Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hồng, sinh năm 1968 và bà Trần Thị Kiều Liên, sinh năm 1966; vợ: Đặng Thị Hạnh Uyên, sinh năm 1993 (ly hôn năm 2013); con: có 01 người con sinh năm 2012 (tên Nguyễn Đặng Kim Thư hiện sống với mẹ); tiền án: có 01 tiền án. Tại Bản án số: 38/2016/HS-ST ngày 08/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xử phạt 06 năm tù về “Tội cướp giật tài sản” (chấp hành xong ngày 18/01/2020); tiền sự: có 03 tiền sự. Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 65/QĐ-XPHC ngày 11/11/2020 của Trưởng Công an xã An Ngãi Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (nộp phạt ngày 11/11/2020). Tại Quyết định số: 40/QĐ- UBND ngày 07/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã An Ngãi Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chấp hành xong ngày 07/5/2021). Tại Quyết định số: 07/QĐ-TA ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 13 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chấp hành xong ngày 24/01/2023); nhân thân: Tại Bản án số 07/2011/HS-ST ngày 11/01/2011 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về “Tội cướp giật tài sản” (chấp hành xong ngày 20/8/2011); bị cáo tại ngoại; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 04/3/2022, Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thanh Bình (sinh năm 2000; nơi cư ngụ: ấp An Hòa, xã An Phú Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) mượn chiếc xe môtô biển số 71C2 - 780.xx của Nguyễn Văn Pha (sinh năm 2005; nơi cư trú: ấp An Thạnh 1, xã An Ngãi Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) đến xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre để mua gà. Khi Cường điều khiển xe chở Bình chạy ngang quán phở 6 Đồng ở ấp Tân Bình, xã Tân Thủy do anh Lê Hoàng Giang, sinh năm 1981 làm chủ, Cường phát hiện chiếc xe môtô biển số 71C1-133.xx của anh Giang dựng trước cửa quán có sẵn chìa khóa trên xe nên nảy sinh ý định trộm bán lấy tiền tiêu xài, Cường dừng xe lại cùng với Bình vào quán ăn phở để lấy trộm xe. Trong lúc ăn phở, Cường rủ Bình lấy trộm xe môtô biển số 71C1 - 133.xx thì Bình đồng ý. Sau khi ăn phở xong, Bình điều khiển xe môtô biển số 71C2-780.xx chạy trước về hướng xã Tân Xuân, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Cường lén lấy chiếc xe môtô biển số 71C1-133.xx chạy theo, cả hai điều khiển xe chạy thẳng lên khu vực ấp Quới Thạnh Đông, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre bán xe môtô biển số 71C1-133.xx cho một người không rõ nhân thân lai lịch được số tiền 4.000.000 đồng, Cường chia cho Bình 2.000.000 đồng và đưa cho Pha 200.000 đồng để Pha đổ xăng sau khi trả xe, còn 1.800.000 đồng thì Cường tiêu xài hết.

Vật chứng và tài sản thu giữ gồm:

- 01 (một) bóp da màu đen, loại bóp kiểu nữ có dây kéo, trên bóp có chữ BONA; 01 (một) giấy đăng ký xe môtô biển số 71C2 - 652.50; 01 (một) giấy đăng ký xe môtô biển số 71C1 - 133.xx và 01 (một) giấy phép lái xe A1 cùng tên Lê Hoàng Giang do Nguyễn Văn Cường giao nộp. Cơ quan điều tra đã xử lý giao trả cho anh Lê Hoàng Giang.

- 01 (một) xe môtô biển số 71C2 - 780.xx và số tiền 200.000 đồng do chị Nguyễn Thị Ngọc Châu (mẹ ruột Nguyễn Văn Pha) giao nộp. Cơ quan điều tra đã xử lý giao trả chiếc xe môtô biển số 71C2 - 780.xx cho chị Nguyễn Thị Ngọc Châu.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 21/KL-HĐĐGTS ngày 26/4/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Tri kết luận: 01 chiếc xe môtô biển số 71C1 - 133.xx đã qua sử dụng có giá trị 25.000.000 đồng và 01 ví da nữ đã qua sử dụng có giá trị 20.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản là: 25.020.000 đồng.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Cường phạm “Tội trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Cường 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21/11/2022 bị cáo Nguyễn Văn Cường kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với Bản án sơ thẩm. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt, không có yêu cầu gì khác.

- Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định, về hình thức và nội dung kháng cáo phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo là đúng quy định. Về tội danh: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Cường phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định. Về hình phạt và kháng cáo của bị cáo: xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Cường 02 năm 06 tháng tù là phù hợp, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không có căn cứ để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm hình sự. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Cường 02 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, án phí dân sự: Mặc dù bị cáo Cường cùng với Nguyễn Thanh Bình thực hiện hành vi chiếm đoạt xe và bán lấy tiền chia nhau tiêu xài nhưng hành vi của Bình đã được tách ra thành vụ án riêng, khi xét xử bị cáo Cường thì không có sự tham gia tố tụng của Bình, nhưng cấp sơ thẩm quyết định buộc bị cáo Cường và Nguyễn Thanh Bình phải liên đới bồi thường cho bị hại số tiền 24.800.000 đồng và cả hai phải chịu án phí dân sự 1.240.000 đồng là vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của Nguyễn Thanh Bình. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 345; điểm đ khoản 2 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự; hủy phần trách nhiệm dân sự, án phí dân sự của Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật.

- Bị cáo không tranh luận.

- Bị cáo nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm kết hợp với các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định: Vào khoảng 14 giờ ngày 04/3/2022, tại ấp Tân Bình, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bị cáo Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thanh Bình đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe môtô biển số 71C1 - 133.xx, bên trong cốp xe có 01 cái bóp đựng một số giấy tờ cá nhân với tổng trị giá 25.020.000 đồng của anh Lê Hoàng Giang.

[3] Về tội danh: bị cáo là người thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự;

đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản của bị hại với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 25.020.000 đồng; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với ý thức, hành vi và giá trị tài sản chiếm đoạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Cường phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Cường yêu cầu giảm nhẹ hình phạt, thấy rằng:

Khi áp dụng hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như “thành khẩn khai báo” theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đã xử phạt bị cáo 02 năm 6 tháng tù;

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: mặc dù bị cáo phạm tội có khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp toa thuốc, phiếu khám bệnh thể hiện cha của bị cáo có điều trị nhiều chứng bệnh trong đó có bệnh thận giai đoạn cuối để yêu cầu giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên; xét thấy bị cáo đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xóa án tích lại phạm tội trộm cắp tài sản, nên lần phạm tội này bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Mặt khác; qua xem xét quá trình hoạt động của bản thân thấy rằng bị cáo đã có 03 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trong thời gian chuẩn bị chấp hành Quyết định số: 07/QĐ-TA ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 13 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản; về nhân thân bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về “Tội cướp giật tài sản”; điều đó đã chứng minh bị cáo có nhân thân không tốt, xem thường pháp luật, là người khó cải tạo, từ khi thực hiện hành vi phạm tội đến nay bị cáo vẫn chưa bồi thường thiệt hại khoản tiền nào cho bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo 02 năm 6 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Xét thấy quyết định của Bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo có căn cứ và đúng pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nên không chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[5] Đối với phần trách nhiệm dân sự theo Bản án sơ thẩm số: 55/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri. Do không có kháng cáo, kháng nghị nên không thuộc thẩm quyền xem xét giải quyết của cấp phúc thẩm. Tuy nhiên nếu có vi phạm pháp luật tố tụng thì sẽ được xem xét giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm.

[6] Quan điểm của Kiểm sát viên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Cường; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 55/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre về phần trách nhiệm hình sự; Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Cường 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”;

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về án phí: căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo Nguyễn Văn Cường phải nộp: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

480
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2023/HS-PT

Số hiệu:08/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;