Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định; Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 07/2022/TLST-HS ngày 28-01-2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2022; đối với bị cáo: Trần Bảo H, sinh năm 1974, tại: Nam Định.

Nơi ĐKNKTT: Xóm 9, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn H, sinh năm 1946; con bà: Ngô Thị H, sinh năm 1945; có vợ là Đoàn Thị T, sinh năm 1982 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2005;

Tiền án: Ngày 23-12-2020, bị tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 08-5-2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo bản án số 146/2013/HS-ST ngày 08-5-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Ngày 15-8-2017, Công an huyện V xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo Quyết định số 168 ngày 15-8-2017 của Công an huyện V.

Ngày 19-12-2018, Công an phường Trần Đăng N, thành phố nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính dưới hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc theo quyết định số 2592 ngày 19-12-2018 đã chấp hành xong ngày 19- 12-2018.

Ngày 16-12-2019, bị Tòa án nhân dân huyện V áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc, đến nay chưa thi hành án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, tạm giam của Công an huyện V từ ngày 13-01-2022 đến nay. “Có mặt”.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1990; Địa chỉ: Xóm 9, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1992. “Vắng mặt”.

+ Anh Nguyễn Công V, sinh năm 1974. “Vắng mặt”.

+ Anh Bùi Trọng H, sinh năm 1982. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 11-12-2021, Trần Bảo H biết phía sau nhà mình có công trường xây dựng nhà xưởng của anh Hoàng Xuân T, nên H đã đi bộ sang khu vực này để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Tại đây, H phát hiện ở mép đường đi ngay phía trước công trình có để một đống cốp pha bằng kim loại. H quay về và chờ đến khoảng 18 giờ cùng ngày, khi thợ làm công trình đã nghỉ và trở về nhà, H đi bộ sang công trường và quan sát không thấy ai quản lý trông coi, nên H đã dùng 02 tay lấy trộm 2 tấm cốp pha bằng kim loại có đặc điểm giống nhau, đều có kích thước (30x200x2) cm, một mặt màu đen, một mặt màu trắng đỏ đã qua sử dụng đang để cùng với đống cốp pha rồi đem về nhà mình cất giấu.

Sau đó H đi bộ sang nhà anh Trần Hữu H cùng xóm thì gặp anh Nguyễn Văn T (là cháu ruột H), H hỏi mượn xe anh T nói là mượn đi có chút việc, T đồng ý. Sau khi mượn xe, H để hai tấm cốp pha ở phía sau yên xe mô tô và điều khiển xe ra đường quốc lộ 10, hướng V đi Thành phố Nam Định tìm nơi tiêu thụ. Khi đi qua quán bia nhà ông T thuộc xóm 9, xã T, huyện V, anh Nguyễn Văn P là chủ đống cốp pha đang ngồi uống bia ở đó phát hiện, đuổi theo và yêu cầu đưa H cùng tang vật bàn giao cho công an xã T để điều tra và xử lý.

Qua trình điều tra, Cơ quan CSĐT công an huyện V đã thu giữ các vật chứng gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu xanh bạc đen, BKS 30L5-7081, cũ đã qua sử dụng.

- 01 đăng ký xe mô tô số 008619 của xe mô tô BKS 30L5-7081, chủ xe là Lã Quang M.

- 02 tấm cốp pha kim loại, có đặc điểm giống nhau, đều có kích thước (30x200x2) cm, một mặt màu đen, một mặt màu trắng đỏ đã qua sử dụng, Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐ ngày 15-12-2021, kết luận:

02 tấm cốp pha có đặc điểm nêu trên trị giá 400.000đ.

Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSVB ngày 27-01-2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Trần Bảo H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo H khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Bảo H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Bảo H từ 09 đến 12 tháng tù.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ kết luận:

Trần Bảo H đã bị Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đến ngày 07-7-2021 H chấp hành xong bản án trở về địa phương sinh sống; như vậy đến ngày 11-12-2021 H chưa được xóa án tích theo quy định của pháp luật. Nhưng chiều ngày 11-12-2021, H nẩy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài cá nhân.

Vào khoảng 18 giờ ngày 11-12-2021, tại công trường xây dựng nhà xưởng do anh Nguyễn Văn P làm chủ thầu xây dựng ở xóm 9, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định, H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 tấm cốp pha bằng kim loại giá trị 400.000 đ, bị anh P phát hiện bắt quả tang.

Đối chiếu hành vi nêu trên của bị cáo và hậu quả xảy ra với những quy định của pháp luật hiện hành thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần xử lý nghiêm trước pháp luật và có mức hình phạt tương xứng để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, thường xuyên vi phạm pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn và đã ra đầu thú nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, h khoản 1 điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Do bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường gì thêm, do đó Hội đồng không xem xét, giải quyết.

[7]. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại vật chứng đã thu giữ cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

[8]. Về tư cách tham gia tố tụng: Anh Nguyễn Văn T đã cho H mượn xe mô tô để sử dụng; trong quá trình điều tra Công an huyện V đã trả lại chiếc xe mô tô và giấy tờ xe cho anh T; anh T không có yêu cầu đề nghị gì. Vì vậy xác định anh Nguyễn Văn T là người làm chứng trong vụ án.

[9]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s, điểm h khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Bảo H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Trần Bảo H 12 (Mười hai) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 13-01-2022.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Bảo H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại anh Nguyễn Văn P vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST

Số hiệu:08/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;