TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ S, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 11/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 3 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2024/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 2 năm 2024 đối với bị cáo
Họ và tên: Đào Văn C; Giới tính: Nam;Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 05/01/2006 tại huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Hộ khẩu thường trú: Thôn An Thành, xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Phù lá; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.Tiền án: Không, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án số 06/2023/HSST ngày 28/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng xử phạt Đào Văn C 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong. theo Bản án số 168/2023/HS-ST ngày 08/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” thời hạn tính từ ngày 06/10/2023 hiện đang chấp hành án. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Chị Hoàng Thị Lệ P. Địa chỉ: Thôn Hòa Sử Pán 2, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai. Có mặt
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Văn K. Địa chỉ: Thôn P, xã T, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nông Thị Thúy Hằng. Địa chỉ: Trung tâm trợ 1 giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 04/10/2023, chị Hoàng Thị Lệ P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Hon Da Vision màu xanh, đỏ, đen BKS 24B2- X đến trường mầm non Sử Pán, thuộc thôn Vạn Dền Sử 2, xã M, thị xã S để làm việc. Khi đến nơi, chị dựng xe ở cổng trường, khóa điện lại rồi đi vào làm việc. Buổi trưa cùng ngày, do xa nhà nên chị Hoàng Thị Lệ P nghỉ tại nhà trường và vẫn để xe ở công trường. Khoảng 12 giờ ngày 04/10/2023, Đào Văn C (Sinh ngày 05/01/2006, trú tại thôn An Thành, xã Thống Nhất, thành Phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai) đi bộ một mình theo đường tỉnh lộ 152, hướng thị xã S đi - huyện Bảo Thắng, khi đi đến khu vực trường Mầm non Sử Pán thuộc thôn Vạn Dền Sử 2, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai, Đào Văn C quan sát thấy trong trường Mầm non không có người nên nảy sinh ý định đi vào trong trường tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi vào khu vực bếp ăn để tìm tài sản, Chức phát hiện 01 chiếc chìa khóa từ của xe mô tô để trên bàn, Chức liền cầm lấy rồi đi ra phía ngoài cổng trường, rồi bấm nút trên chìa khóa thì phát hiện chiếc xe Hon Da Vision màu xanh, đỏ, đen BKS 24B2 - X đang dựng ở cổng trường nháy đèn, Đào Văn C quan sát thấy không có người trông coi nên tiến lại gần ngồi lên chiếc xe, bấm khóa điện vặn mở khóa rồi nổ máy, điều khiển xe chạy theo đường tỉnh lộ 152 hướng đi huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai. Trên đường đi, Đào Văn C dừng xe, mở cốp kiểm tra phát hiện bên trong có 01 túi thổ cẩm, trong túi có 01 đăng ký xe BKS 24B2- X, 01 giấy phép lái xe cùng mang tên Hoàng Thị Lệ P, Đào Văn C liền cất lại vào cốp xe rồi tiếp tục điều khiển đi về huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Đào Văn C điều khiển xe đến quán sửa xe máy của anh Đào Văn K (Sinh năm 1974, trú tại thôn P, xã T, thành phố Lào Cai). Tại đây Đào Văn C giới thiệu mình là Hoàng Văn C, trú tại thôn Nậm Rịa, xã Hợp Thành, thành phố Lào Cai và nói muốn bán chiếc xe Hon Da Vision màu xanh, đỏ, đen BKS 24B2 - X đã mua lại trước đó của chị Hoàng Thị Lệ P cho anh K với giá 25.000.000 đồng. Qua trao đổi Chức và anh K thống nhất mua, bán chiếc xe với giá 17.000.000 đồng. Sau khi bán chiếc xe trộm cắp được trước đó, Đào Văn C đi về xã Hợp Thành, thành phố Lào Cai. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi xong việc chị P đi ra cổng để lấy xe đi về nhà, thì phát hiện kẻ gian trộm cắp mất chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon Da Vision BKS 24B2- X của mình, nên đã làm đơn trình báo Công an xã M.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 50/KL- HĐĐG, ngày 29/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã S kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Hon Da Vision màu xanh, đỏ, đen BKS 24B2- X có tổng trị giá là 33.750.000 đồng Cáo trạng số 02/CT-VKSSP ngày 29/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã S đã truy tố bị cáo Đào Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Đào Văn C khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như kết luận điều tra của cơ quan điều tra và bản cáo trạng viện kiểm sát đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã S giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã S đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 91; Điều 98; Điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584; Điều 585 Bộ luật Dân sự, tại thời điểm xét xử bị cáo Chức đủ 18 tuổi vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Đào Văn C phải trả cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đào Văn K số tiền 17.000.000 đồng ( mười bảy triệu đồng).Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị phạt bổ sung đối với bị cáo; Tuyên án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ý kiến người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã S đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo. Bị cáo là người Dân tộc thiểu số vì vậy hạn chế về nhận thức pháp luật. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tài sản phạm tội không lớn. Vì vậy người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91; Điều 98; Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo 12 tháng tù. Bị cáo là người không có tài sản riêng đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo Đào Văn C nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
1.1. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, cơ quan truy tố điều tra viên; kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
1.2. Về sự có mặt của bị hại: Trong quá trình điều tra, bị hại đã nhận lại tài sản và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tuy nhiên tại phiên tòa người bị hại xin rút lại đơn xin giảm nhẹ, người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về xác định tội phạm và áp dụng pháp luật: Ngày 04/10/2023 lợi dụng sơ hở của người bị hại chị Hoàng Thị Lệ P, bị cáo Đào Văn C đã có hành vi trộm cắp tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu Hon Da Vision màu xanh, đỏ, đen BKS 24B2 - X của chị Hoàng Thị Lệ P có trị giá là 33.750.000 đồng ( ba mươi ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) thì bị phát hiện. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận định giá, lời khai của bị hại cũng như các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đào Văn C đã cấu thành tội“Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
[2.2]. Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, hiểu biết pháp luật. Mặc dù biết rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do lười lao động, muốn có tiền để tiêu sài cá nhân nên bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản là 33.750.000 đồng (ba mươi ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Đào Văn C 17 tuổi 8 tháng 29 ngày . Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đào Văn C không có tình tiết tăng nặng - Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình,. Đây các là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đây là những tình tiết được áp dụng khi xem xét lượng hình đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
-Về nhân thân:Tại bản án số 06/2023/HSST ngày 28/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng xử phạt Đào Văn C 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong. theo Bản án số 168/2023/HS-ST ngày 08/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. thời hạn tính từ ngày 06/10/2023 hiện đang chấp hành án. Theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự thì 02 bản án trên được coi là không co án tích đối với bị cáo.
[2.4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Đào Văn C không có tài sản riêng vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[2.5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Hoàng Thị Lệ P. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu hồi và trả lại tài sản cho người bị hại. Chị P đã nhận lại đủ, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
[3] Về vấn đề khác:
Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo 12 tháng tù. Xét thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, tài sản phạm tội 33.750.000 đồng vì vậy không chấp nhận mức đề nghị của người bào chữa cho bị cáo.
Đối với anh Đào Văn K, quá trình điều tra xác định anh K đã bỏ số tiền 17.000.000 đồng mua chiếc xe của Đào Văn C, khi mua không biết đó là tài sản do Chức phạm tội mà có. Khi biết đó là tài sản do phạm tội mà có, anh K đã giao nộp cho Cơ quan Công an. Đến nay anh Đào Văn K yêu cầu bị cáo phải trả lại cho anh số tiền 17.000.000 đồng xét thấy tại thời điểm xét xử bị cáo thì bị cáo đã đủ 18 tuổi vì vậy buộc bị cáo phải là người bồi thường cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định của pháp luật cần được chấp nhận.
[4] Về vật chứng: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Hon Da Vision màu xanh, đỏ, đen BKS 24B2 - X kèm giấy tờ mang tên Hoàng Thị Lệ P ngày 22/12/2023, Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã S ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Hoàng Thị Lệ P [4] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm h,s khoản 1 Điều 51; Điều 91; Khoản 4 Điều 98; Điều 101 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đào Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo 15 ( mười năm) tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 104 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 168/2023/HS-ST ngày 08/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Buộc bị cáo Đào Văn C phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2023.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584; Điều 585 Bộ luật Dân sự.
Buộc bị cáo Đào Văn C phải trả cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đào Văn K số tiền 17.000.000 đồng ( mười bảy triệu đồng) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Đào Văn C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 850.000 đồng ( Tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".
Bản án 07/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 07/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Sa Pa - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về