Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 167/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2022/HSST-QĐ ngày 14 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Viết M, sinh năm 1969 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: không đăng ký; chỗ ở trước khi bị bắt: C11/39/2 ấp 3, xã A, huyện B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Viết T (chết) và bà: Nguyễn Thị T (chết); có vợ: Dương Thị L, sinh năm 1964 và con: không có; nhân thân:

+ Bản án số 253/HSST ngày 12/12/1988 Tòa án nhân dân Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”;

+ Bản án số 230/HSST ngày 15/5/1991 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”;

+ Bản án số 134/HSST ngày 24/8/1996 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” và “Gây rối trật tự công cộng”;

tiền án: Bản án số 133/HSST ngày 06/5/2003 Tòa án nhân dân Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 30/7/2006, bị cáo chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Quyết định số 0010609/QĐ-XPHC ngày 07/12/2008 Công an Phường 9, Quận 3 phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng có mang theo vũ khí thô sơ”, bị cáo chưa nộp phạt; tạm giữ, tạm giam: 29/6/2021. Có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Vạn Văn T, sinh năm 1976, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Anh Vạn Văn T1, sinh năm 2001, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định đi trộm căp tài sản để kiếm tiền tiêu xài nên vào khoảng 02 giờ 40 phút ngày 25/06/2021, Nguyễn Viết M đi bộ đến đường X, Phường C, quận D thì phát hiện Trạm y tế Phường C, quận D, địa chỉ đường X, Phường C, quận D đang sáng đèn, cửa cổng khóa. M liền leo qua tường rào của trạm y tế và đi vào bên trong. M phát hiện thấy ông Vạn Văn T cùng con trai là Vạn Văn T1 đang nằm bên trong cửa trạm y tế, ngay bên cạnh chỗ ông T nằm có để các tài sản sau: 02 chiếc điện thoại di động đang cắm sạc pin gồm 01 chiếc hiệu Iphone 6 plus màu vàng và 01 chiếc điện thoiaj di động hiệu Vivo Y15 màu đen; trong chiếc quần ngay trên đầu nằm của ông T có để chiếc bóp da. M liền lén lút đi đến lấy 02 chiếc điện thoại và chiếc bóp rồi đi ra phía tường rào của trạm y tế. Khi M bỏ chạy đến tường rào thì ông T tỉnh giấc phát hiện tri hô, M nhanh chóng leo tường rào ra ngoài chạy bộ tẩu thoát.

Trên đường bỏ chạy, M gỡ 02 chiếc ốp lưng của 02 chiếc điện thoại di động vất bỏ lại trên đường. M chạy bộ đến đường K thì kêu xe ôm chở về nhà tại huyện B. Trên đường về, M kiểm tra chiếc bóp da màu nâu phát hiện bên trong có số tiền 2.550.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân của ông Vạn Văn T. M giữ lại tiền và giấy tờ, vất bỏ chiếc bóp xuống kênh dọc đường về. Khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, M đón xe honda ôm đến đường V (lề đường trước số 84A đường V, Phường I, Quận K) bán chiếc điện thoại Iphone 6 Plus bán được 1.200.000 đồng và chiếc điện thoại Vivo Y15 bán được 800.000 đồng. Số tiền chiếm đoạt được và tiền bán điện thoại,M đưa cho vợ là chị Dương Thị L số tiền 1.500.000 đồng, số tiền còn lạiM tiêu xài hết. Khoảng 3 giờ 00 phút ngày 29/06/2021, M nhờ Nguyễn Văn Đ điều khiển xe máy hiệu Wave (không rõ biển số) chở đến Trạm y tế Phường C, quận D để vứt trả giấy tờ thì bị ông T phát hiện tri hô cùng quần chúng bắt giữ M giao cho Công an Phường 15, quận Tân Bình xử lý, Đoàn điều khiển xe máy bỏ đi.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Nguyễn Viết M đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu trên.

Kết quả làm việc, chị Dương Thị L cho biết: Vào sáng ngày 26/6/2021, chồng chị là Nguyễn Viết M đưa cho chị số tiền là 1.500.000 đồng để sinh hoạt hằng ngày. Chị L không biết số tiền 1.500.000 đồng do M đưa là tiền phạm tội mà có nên đã mua đồ ăn hết 300.000 đồng, còn lại 1.200.000 đồng chị nộp lại cho cơ quan công an. Lời trình bày của chị L là phù hợp với lời khai của M. Do đó, không có căn cứ để xử lý chị L.

Vật chứng vụ án:

- 01 USB ghi nhận diễn biến vụ việc M lấy trộm tài sản vào ngày 15/6/2021 (lưu kèm hồ sơ vụ án).

- 01 điện thoại di động Nokia 3310 màu vàng, 01 bộ quần áo và 01 đôi dép màu đen thu giữ của M.

- 1.200.000 đồng do Dương Thị L (vợ của M) giao nộp.

- Tài sản bị chiếm đoạt chưa thu hồi được: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng trị giá 3.900.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu ViVo Y15 màu đen trị giá 2.200.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại Iphone 6 Plus bằng nhựa cứng màu đen trị giá 20. 000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại ViVo Y15 bằng nhựa màu vàng nhạt trị giá 20.000 đồng; số tiền 2.550.000 đồng và chiếc bóp da màu nâu không có mẫu, hóa đơn chứng từ và các thông tin liên quan nên không có cơ sở định giá. Tổng tài sản bị chiếm đoạt là 8.690.000 đồng.

Qua làm việc, ông Vạn Văn T cho biết tài sản bị chiếm đoạt còn có số tiền 2.000.000 đồng cất bên trong ốp lưng của chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng. Tuy nhiên, Nguyễn Viết M không thừa nhận có chiếm đoạt số tiền này. Kết quả đối chất, M, ông T vẫn giữ nguyên lời khai. Ngoài lời khai của ông T thì không có chứng cứ nào chứng minh bên trong chiếc ốp lưng điện thoại có số tiền 2.000.000 đồng. Ông T và anh T1 yêu cầu M bồi thường tổng số tiền 10.000.000 đồng.

Đối với đối tượng Trần Văn Đoàn, M khai nhận chỉ nhờ Đ chở đi công việc, Đ không biết M trộm cắp tài sản vào ngày 15/6/2021, hiện chưa làm việc được với Đ. Khi nào làm việc được, nếu có cơ sở sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 158/CT-VKSTB ngày 23 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Viết M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Viết M, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo cơ bản phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Viết M đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng trị giá 3.900.000 đồng kèm ốp lưng điện thoại Iphone 6 Plus bằng nhựa cứng màu đen trị giá 20.000 đồng và 1 chiếc bóp bên trong có số tiền 2.550.000 đồng của ông Vạn Văn T; 01 điện thoại di động hiệu ViVo Y15 màu đen trị giá 2.200.000 đồng kèm 01 ốp lưng điện thoại ViVo Y15 bằng nhựa màu vàng nhạt trị giá 20.000 đồng của anh Vạn Văn T1, tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 8.690.000 đồng, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại anh Vạn Văn T1 yêu cầu bị cáo bồi thường 2.220.000 đồng là trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của anh T1 không thu hồi được. Bị cáo đồng ý. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, buộc bị cáo bồi thường số tiền 2.220.000 đồng cho anh T1.

Bị hại ông Vạn Văn T yêu cầu bị cáo bồi thường cho ông số tiền 6.470.000 đồng gồm điện thoại di động kèm ốp lưng trị giá 3.920.000 đồng, số tiền 2.550.000 đồng bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được. Ông T yêu cầu nhận lại số tiền 1.200.000 đồng mà vợ bị cáo giao nộp. Như vậy, bị cáo còn phải bồi thường cho ông số tiền 5.270.000 đồng. Đối với số tiền 2.000.000 đồng bị cáo không thừa nhận chiếm đoạt của ông, ông xác nhận không yêu cầu bị cáo bồi thường. Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 5.270.000 đồng theo yêu cầu của ông T. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo, buộc bị cáo bồi thường cho ông T số tiền 5.270.000 đồng.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 USB ghi nhận diễn biến vụ việc bị cáo lấy trộm tài sản là chứng cứ của vụ án và có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01 điện thoại di động Nokia 3310 màu vàng, 01 bộ quần áo và 01 đôi dép màu đen thu giữ của bị cáo, xét thấy điện thoại di động là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo; đối với 01 bộ quần áo và 01 đôi dép màu đen là những vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.

- 1.200.000 đồng do Dương Thị L (vợ của bị cáo) giao nộp, bị cáo khai là tiền lấy trộm của ông T, ông T có yêu cầu nhận lại số tiền này nên cần giao trả số tiền này cho ông T.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Viết M 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

[2] Buộc bị cáo bồi thường cho ông Vạn Văn T số tiền 5.270.000 (năm triệu hai trăm bảy mươi ngàn) đồng.

Buộc bị cáo bồi thường cho anh Vạn Văn T1 số tiền 2.220.000 (hai triệu bốn trăm ngàn) đồng.

Kể từ ngày ông Vạn Văn T và anh Vạn Văn T1 có đơn xin thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản như đã nêu trên, bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi chậm thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự.

sản.

[3] Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi nhận diễn biến vụ việc bị cáo lấy trộm tài Trả lại cho ông Vạn Văn T số tiền 1.200.000 (một triệu hai trăm ngàn) đồng. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 3310 màu vàng, số imei 1: 357329084133000, số imei 2: 357329086133008.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 quần thun ngắn màu nâu, 01 áo sơmi ngắn tay màu xám và 01 đôi dép màu đen.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 130/PNK ngày 15/9/2021 của Công an quận Tân Bình).

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 374.500 (ba trăm bảy mươi bốn ngàn năm trăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;