Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thái Th, sinh năm 1985 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 2, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Duy Ph, sinh năm 1957 và bà Lữ Thị V, sinh năm 1961; Tiền án: 03. Ngày 07/11/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/12/2017, ngày 08/01/2020 chấp hành xong án phí; Ngày 13/6/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 30/7/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt là 02 năm 06 tháng tù; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 13/7/2010 bị Ủy ban nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện theo Quyết định số 1130/QĐ – UBND; Ngày 18/3/2013 bị bị Ủy ban nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Quyết định số 407/QĐ – UBND; Bị bắt ngày 25/12/2021 theo quyết định truy nã, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Krông Nô - Có mặt.

- Bị hại: Anh Bàn Tiến D, sinh năm 1988 - Vắng mặt Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Dương L, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn 1C, xã S, huyện G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt

Ông Trần Duy P, sinh năm 1957; địa chỉ: Thôn 2, xã H, huyện M, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt

- Người làm chứng: Anh Đặng Quốc Th, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 18/7/2021 Trần Thái Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát số 16M6 – 6759 chở Nguyễn Dương L đến khu vực thác 4, xã Ph, huyện K, tỉnh Đăk Nông mua ma túy để sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, Th chở L đến khu vực xã N, huyện K thì dừng lại L đi mua thuốc lá còn Th đi xung quanh thì phát hiện một cân đồng hồ màu xanh không có mặt kính Th lấy cân mang theo và đi về chỗ của L và cả hai đi đến khu vực chợ Nâm Nđir thì quay xe lại. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày khi Th và L đến khu vực thôn N, xã N, huyện K thì thấy nhà anh Bàn Tiến D khóa cửa nên Th vào sân nhà anh D và đi ra bên hông nhà anh D để sử dụng ma túy, còn L đứng đợi Th. Khi Th sử dụng ma túy xong thấy có 01 cuộn lưới B40 nên nảy sinh ý định trộm cắp. Th cuộn gọn cuộn lưới lại và gọi L đến để cùng khênh lên xe, khi Th và L đặt được cuộn lưới lên xe và chuẩn bị đi thì anh Bàn Tiến D về phát hiện vụ việc nên giữ Th và L lại và báo Công an xã N, huyện K.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐG ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá và bán đấu giá tài sản huyện Krông Nô kết luận: 01 cuộn lưới B40 có giá trị tại thời điểm ngày 18/7/2021 là 870.833 đồng (Tám trăm bảy mươi nghìn, tám trăm ba mươi ba đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐG ngày 05/01/2022 của Hội đồng định giá và bán đấu giá tài sản huyện Krông Nô kết luận: 01 (một) cân đồng hồ màu xanh đã cũ, không có mặt kính có giá trị tại thời điểm ngày 18/7/2021 là 200.000 đồng.

Cáo trạng số 07/CTr-VKS, ngày 25/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố bị cáo Trần Thái Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô thực hành quyền công tố luận tội và tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thái Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1, Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thái Th từ 12 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 25/12/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoan 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 228a ngày 24/8/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô:

Tra lại 01 (một) cuộn lưới B40 đã qua sử dụng, cao 1,2m, nặng 39kg cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Bàn Tiến D;

Trả lại cho ông Trần Duy Ph 01 (một) xe mô tô biển số 16M6-6759.

Đối với vật chứng 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính, mà Th lấy nhưng chưa xác định được bị hại: Th khai Thông lấy cân này ngoài cổng của nhà một người dân (không xác định được, cách nhà anh D khoảng 4 km) về để bán phế liệu, tuy nhiên quá trình điều tra, xác minh với Công an xã Nâm N’đir thì từ ngày 18/7/2021 không tiếp nhận tin báo, tố giác nào liên quan đến việc mất 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính. Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô đã thông báo công khai tìm chủ sở hữu đối với chiếc cân trên: Căn cứ Điều 46 BLHS; Điều 106 BLTTHS; khoản 1, Điều 228 Bộ luật Dân sự: Sau 01 năm kể từ ngày công bố công khai mà vẫn không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước.

(Tất cả vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô) - Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Đối với Nguyễn Dương L cùng Th thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng giá trị tài sản dưới 2.000.000 đồng, L không có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt. Công an huyện Krông Nô đã xử phạt hành chính đối với L là đúng quy định cần chấp nhận.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Thái Th và Nguyễn Dương L. Công an xã Nâm N’đir đã xử phạt hành chính là đúng quy định.

Đối với hành vi Th và L mua ma túy của một người tên S và việc Th lấy 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính (chưa xác định được bị hại) Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Krông Nô tiếp tục điều tra xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được thẩm tra công khai tại phiên toà, do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 18/7/2021, Trần Thái Th đến nhà anh Bàn Tiến D thuộc thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông lấy trộm 01 cuộn lưới B40 cao 1,2m đã qua sử dụng, nặng 39kg có giá trị là 870.833 đồng. Mặc dù giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng, tuy nhiên trước đó ngày 30/7/2019 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục vi phạm.

Như vậy, với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt, đã đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Trần Thái Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

...

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;”

[3]. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an ở địa phương, gây tổn thất về vật chất cho bị hại. Do đó cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 07/11/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong xử phạt 10 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 13/6/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nên lần này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm”.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7]. Đối với Nguyễn Dương L cùng Th thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng giá trị tài sản dưới 2.000.000 đồng, L không có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt. Công an huyện Krông Nô đã xử phạt hành chính đối với L là đúng quy định cần chấp nhận.

[8]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Thái Th và Nguyễn Dương L. Công an xã Nâm N’đir đã xử phạt hành chính là đúng quy định.

[9]. Đối với hành vi Th và L mua ma túy của một người tên S và việc Th lấy 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính (chưa xác định được bị hại) Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Krông Nô tiếp tục điều tra xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

[10]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoan 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 228a ngày 24/8/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô tra lại:

01 (một) cuộn lưới B40 đã qua sử dụng, cao 1,2m, nặng 39kg cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Bàn Tiến D;

Trả lại cho ông Trần Duy Ph 01 (một) xe mô tô biển số 16M6-6759.

Đối với vật chứng 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính, mà Th lấy nhưng chưa xác định được bị hại: Th khai Th lấy cân này ngoài cổng của nhà một người dân (không xác định được, cách nhà anh D khoảng 4 km) về để bán phế liệu, tuy nhiên quá trình điều tra, xác minh với Công an xã Nâm N’đir thì từ ngày 18/7/2021 không tiếp nhận tin báo, tố giác nào liên quan đến việc mất 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính. Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô đã thông báo công khai tìm chủ sở hữu đối với chiếc cân trên: Căn cứ Điều 46 BLHS;

Điều 106 BLTTHS; khoản 1, Điều 228 BLDS: sau 01 năm kể từ ngày công bố công khai mà vẫn không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước.

(Tất cả vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô)

[11]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí toà án. Buộc bị cáo Trần Thái Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thái Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1, Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thái Th 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 25/12/2021.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoan 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 228a ngày 24/8/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô tra lại 01 (một) cuộn lưới B40 đã qua sử dụng, cao 1,2m, nặng 39kg cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Bàn Tiến D; Trả lại cho ông Trần Duy Ph 01 (một) xe mô tô biển số 16M6-6759.

Đối với vật chứng 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính, mà Th lấy nhưng chưa xác định được bị hại: Th khai Th lấy cân này ngoài cổng của nhà một người dân (không xác định được, cách nhà anh D khoảng 4 km) về để bán phế liệu, tuy nhiên quá trình điều tra, xác minh với Công an xã Nâm N’đir thì từ ngày 18/7/2021 không tiếp nhận tin báo, tố giác nào liên quan đến việc mất 01 (một) cân đồng hồ màu xanh, không có mặt kính. Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô đã thông báo công khai tìm chủ sở hữu đối với chiếc cân trên: Căn cứ Điều 46 BLHS;

Điều 106 BLTTHS; khoản 1, Điều 228 BLDS: sau 01 năm kể từ ngày công bố công khai mà vẫn không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước.

(Tất cả vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Thái Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Người có quyền có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;