Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 263/2021/TLST- HS, ngày 09 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh T (giới tính: Nam), sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 177/42, đường B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn) 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh T1 và bà Huỳnh Thị Hồng N; bị cáo có vợ và hai con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2021. (có mặt)

* Bị hại: Ông Lê Văn P, sinh năm 1985; nơi cư trú: Ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Long An (vắng mặt) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Lương Thị M; nơi cư trú: 122/27/63/2 đường T, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

2/ Ông Bùi Tấn T, sinh năm 1983; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Long An (vắng mặt)

3/ Bà Đỗ Thị Ngọc H, sinh năm 1977; nơi cư trú: Số D9/272/1 Ấp 4, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 19/5/2021, bị cáo Trần Thanh T đi xe buýt đến nhà vợ của bị cáo tại chợ Phú Lạc, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh để thăm con. Do cần tiền đưa con đi khám bệnh nên bị cáo gọi điện thoại cho người tên Vinh (không rõ lai lịch) để mượn tiền. Sau đó, bị cáo đến trước địa chỉ quán cà phê Thuỷ Tiên, khu phố Kim Điền, Thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An đứng đợi nhưng không thấy Vinh. Khoảng 15 phút sau thì có 01 thanh niên (không rõ lai lịch) điều khiển xe Mio (không rõ biển số) chở theo 01 đứa nhỏ đến nói chuyện với bị cáo và rủ bị cáo đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì bị cáo đồng ý. Nam thanh niên để đứa nhỏ lại quán và chở bị cáo đi tìm tài sản để chiếm đoạt. Khi đến trước địa chỉ C9/3A, ấp 3, xã Q, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện 01 xe mô tô biển số 59M1-290.05 của ông Lê Văn P cắm sẵn chìa khoá không người trông coi nên nam thanh niên nói bị cáo trộm xe này thì bị cáo đồng ý. Bị cáo xuống xe đi bộ đến chỗ để xe mô tô biển số 59M1-290.05 leo lên xe nổ máy bỏ chạy thì bị ông P phát hiện, tri hô mọi người đuổi theo bị cáo. Bị cáo điều khiển xe chạy một đoạn thì phát hiện chốt kiểm soát dịch bệnh Covid – 19 nên nam thanh niên nói bị cáo bỏ xe mô tô biển số 59M1-290.05 lên xe thanh niên để bỏ chạy. Khi đến bãi đất trống, bị cáo nhảy xuống xe nhưng lúc này nam thanh niên đã chạy xe đi. Bị cáo liền chạy bộ đến trước địa chỉ B10/23, ấp 2, xã Q, huyện B thì bị ông P và người dân bắt giữ giao Công an xã Q lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng. Sau đó, hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thụ lý theo thẩm quyền.

Kết luận định giá tài sản số 1188/HĐĐGTTHS-TCKH ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh kết luận: tại thời điểm bị chiếm đoạt xe mô tô biển số 59M1-290.05 của ông Lê Văn P có giá trị 2.980.000 đồng (hai triệu chín trăm tám mươi ngàn đồng).

Cáo trạng số 196/CT-VKS ngày 29/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản phù hợp với nội dung đã được tóm tắt nêu trên, không tự bào chữa, không tranh luận. Bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Sáng ngày 19/5/2021, bị cáo có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt chiếc xe mô tô Mio biển số 59M1-290.05 trị giá 2.980.000 đồng (hai triệu, chín trăm tám mươi ngàn đồng) của ông Lê Văn P tại địa chỉ C9/3A, ấp 3, xã Q, huyện B nhưng đã bị bắt quả tang.

[3] Lời khai nhận của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa và lời khai của bị hại, người làm chứng phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án và Kết luận định giá tài sản số 1188/HĐĐGTTHS-TCKH ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, xét có đủ chứng cứ để kết luận: Bị cáo Trần Thanh T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[4] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội cố ý trực tiếp, lợi dụng lúc chủ sở hữu tài sản sơ hở rồi lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật. Động cơ phạm tội là để bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi này của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Tội phạm đã hoàn thành. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Các biện pháp tư pháp:

[6.1] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Lê Văn P đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6.2] Về xử lý vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 59M1-290.05, số khung RLHHC12058Y543189, số máy HC12E0092242: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả xe cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 áo khoác màu đen, sau lưng có chữ Adidas, 01 quần Jean thu giữ của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai không có yêu cầu nhận lại những tài sản này nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy theo quy định.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO A59S: Tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ Điều 106, Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 07 (tháng) 23 (hai mươi ba) ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/5/2021.

Bị cáo Trần Thanh T đã chấp hành xong hình phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 áo khoác màu đen (sau lưng có chữ Adidas); 01 quần Jean.

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu OPPO A59S.

Vật chứng trên hiện đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/11/2021 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (06/01/2022), bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với bị hại, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;