Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 139/2022/TLST- HS ngày 30 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2022/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 12 năm 2022, đối với:

- Bị cáo: Đỗ Thanh M, sinh năm 1993 tại huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Tháp Thượng, xã S, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Thảo và bà Đỗ Thị Gái; có vợ và có 01 con sinh năm 2021; tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 21/2014/HSST ngày 18/4/2014, Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng xử phạt 15 tháng tù về tội Đánh bạc, bị cáo đã nộp án phí, chưa thi hành khoản phải nộp 19.589.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Bản án số 64/2014/HSST ngày 29/5/2014, Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức xử phạt 9 tháng tù về tội Đánh bạc, tổng hợp hình phạt 15 tháng tù của bản án số 21/2014/HSST ngày 18/4/2014 của TAND huyện Đan Phượng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 24 tháng tù; bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 09/11/2015 nhưng bị cáo chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm. Nhân thân: Ngày 28/12/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản (đã được xoá án tích);

Danh bản, chỉ bản số 371 của Công an huyện Đan Phượng lập ngày 18/11/2022; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/11/2022 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; nơi cư trú: Cụm 2, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Cháu Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 2012. Người đại diện theo pháp luật là chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1978 và anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 (là bố mẹ đẻ cháu A); cùng cư trú: Cụm 2, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978; nơi cư trú: Cụm 2, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Chị Đỗ Thị Hồng N, sinh năm 2002; nơi cư trú: Thôn Tháp Thượng, xã S, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1980; nơi cư trú: Cụm 2, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 27/10/2022, Đỗ Thanh M ở thôn Tháp Thượng, xã S, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội điều khiển xe máy Honda Wave màu xanh, biển kiểm soát 29X3-xxxxx có 01 gương bên trái đi từ nhà ở thôn Tháp Thượng theo đường 20m thuộc xã H đến nhà mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1980 ở cụm 2, Hồng Hà để lấy xe ô tô tải đi lấy nguyên vật liệu xây dựng ở Hoà Bình. Lúc gần đến nhà mẹ vợ thì M rẽ vào đường ven đê, đến gần Trường tiểu học xã H. Do biết nhà chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1978 ở cụm 2, xã H (sát nhà mẹ vợ M) không có người lớn ở nhà vào khoảng thời gian từ 12 giờ đêm đến sáng hôm sau nên M nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của gia đình chị H. M dừng xe ở đường, mặc thêm chiếc áo mưa màu xanh tím than để tránh bị phát hiện, rồi điều khiển xe máy đi ra khu đền Đoàn thuộc cụm 2 xã H và để xe ở đó. M đi bộ vào nhà chị H, thấy cửa khép nhưng không khoá. M đi lên tầng 2 lục lọi đồ đạc thì không thấy tài sản gì. Quan sát thấy 01 con lợn đất bằng gốm màu đỏ để trong két bị hỏng cánh cửa, M cầm và đục lỗ nhỏ của con lợn xem có tiền trong đó không, thấy có tiền M cầm con lợn ra khỏi nhà đến khu vực giếng nước gần đền Đoàn, chỗ M để xe máy. Tại đây, M đập con lợn xuống đất vỡ làm nhiều mảnh rồi cầm tiền nhét vào quần sịp, mảnh vỡ của con lợn M ném xuống giếng, rồi lấy xe máy điều khiển đến gần trạm bơm Tiên Tân thì dừng xe lại và bỏ tiền ra đếm được 22.000.000 đồng, đều mệnh giá 500.000 đồng. Sau đó, M nhét vào quần sịp rồi tiếp tục điều khiển xe đến đầu đường 20m thì dừng xe dắt, do trước đó có bảo với bà Thảo là xe bị hỏng. Khi M dắt xe đến cửa hàng vật liệu nhà anh chị Tú Trang thì gặp bà Thảo đang đứng đợi. Sau đó, M và bà Thảo đi lên Hoà Bình để lấy hàng, trên đường đi M không rõ số tiền trộm cắp được bị rơi ở đâu.

Quá trình xác minh, Cơ quan Công an tiến hành thu giữ đồ vật, tài liệu sau: 01 xe máy Honda Wave màu xanh, biển kiểm sát 29X3-xxxxx; 01 áo khoác phao màu đen, hai cánh tay áo có sọc kẻ trắng; 01 quần bò màu xanh; 01 đôi dép tổ ong màu trắng; 01 áo mưa màu xanh tím than; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Fealame màu xanh, gắn sim số 086511xxxx; các mảnh vỡ của con lợn gốm, bên ngoài có sơn màu đỏ, có hoa văn thu giữ tại hiện trường nơi M đập con lợn đất; 02 đoạn clip thu thập qua camera do chị Đỗ Thị V, sinh năm 1984 trú tại Cụm 1, xã H cung cấp.

Tại Kết luận định giá số 144/KL-HĐĐGTS ngày 11/11/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đan Phượng, kết luận: “01 con lợn gốm đất có trị giá 60.000 đồng” Về số tiền trong con lợn đất chị H khai nhận khi có tiền hoặc dịp đặc biệt thì chị để từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng (đều mệnh giá 500.000 đồng) vào con lợn đất và để cho con gái là Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 21/6/2012 làm tiền tiết kiệm. Số tiền trong con lợn đất chị không nhớ chính xác là bao nhiêu. Đỗ Thanh M khai nhận khi đập con lợn đất và đếm được số tiền là 22.000.000 đồng. Số tiền trên M làm rơi mất, không biết rơi ở đâu. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành rà soát nhưng không thu giữ được.

Bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-ĐP ngày 27 tháng 12 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đỗ Thanh M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Thanh M đã khai nhận hành vi của mình như nội dung nêu trên. Bị cáo cũng trình bày đã nhận thức việc làm của mình là sai pháp luật và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đỗ Thanh M về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo M từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về dân sự bị cáo đã bồi thường nên không đề nghị xem xét. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác phao màu đen, 01 quần bò màu xanh, 01 đôi dép tổ ong màu trắng, 01 áo mưa màu xanh tím than, các mảnh gốm vỡ; trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Fealame; trả lại chị Đỗ Thị Hồng N 01 chiếc xe máy Honda Wave màu xanh, biển kiểm sát 29X3-xxxxx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra và truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Thanh M đã khai nhận hành vi của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Rạng sáng ngày 27/10/2022, Đỗ Thanh M đã lén lút đột nhập vào tầng 2 nhà chị Nguyễn Thị H ở cụm 2, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội trộm cắp 01 con lợn đất bằng gốm màu đỏ trị giá 60.000 đồng, bên trong có số tiền 22.000.000 đồng, tổng số tài sản M chiếm đoạt trị giá 22.060.000 đồng. Sau khi trộm cắp số tiền trên, M đã làm rơi mất, không xác định địa điểm làm rơi. Sau dó, M đã bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Thanh M đã đủ các yếu tố cấu T tội “Trộm cắp tài sản” qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn trong bản cáo trạng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng ba lần bị Tòa án xét xử phạt tù về tội Đánh bạc và Trộm cắp tài sản, thuộc trường hợp tái phạm chưa được xóa án nhưng không sửa chữa, nay lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Hội đồng xét xử cũng xem xét: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T khẩn khai báo, đã bồi thường tài sản cho bị hại, tội phạm bị cáo thực hiện là tội ít nghiêm trọng và bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Như vậy, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét thấy bị cáo Đỗ Thanh M là lao động tự do, không có điều kiện về kinh tế và thu nhập ổn định để đảm bảo cho việc thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị H đã được bị cáo bồi thường tài sản là số tiền 22.000.000 đồng, chị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T không yêu cầu, đề nghị gì về dân sự; giá trị con lợn gốm đất nung chị H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không phải xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra xác định 01 xe máy Honda Wave màu xanh, biển kiểm sát 29X3-xxxxx là tài sản hơp pháp của chị Đỗ Thị Hồng N (là vợ bị cáo M), chị N chỉ biết M lấy xe của chị để đi làm còn việc M thực hiện hành vi phạm tội thì chị N không biết. Chiếc xe máy được mua bằng tiền riêng và là tài sản thuộc sở hữu của chị N nên trả lại cho chị N là phù hợp.

Vật chứng là 01 áo khoác phao màu đen, 01 quần bò xanh, 01 đôi dép tổ ong màu trắng, 01 áo mưa màu xanh tím than là trang phục cá nhân của bị cáo mặc khi thực hiện hành vi phạm tội, do bị cáo M không yêu cầu trả lại; các mảnh vỡ của con lợn đất nung thu giữ tại hiện trường nơi bị cáo M đập con lợn đất, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 đoạn clip thu thập qua camera do chị Đỗ Thị V, sinh năm 1984 trú tại Cụm 1, xã H cung cấp được lưu giữ theo hồ sơ vụ án; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Fealame màu xanh gắn sim số 086511xxxx được xác định là tài sản của bị cáo M, quá trình điều tra xác định bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo là có căn cứ.

[8] Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thanh M 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 18/11/2022.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bồi thường tài sản; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu, đề nghị gì về dân sự nên không phải xem xét.

+ Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác phao màu đen, hai cánh tay áo có sọc kẻ trắng, 01 quần bò màu xanh, 01 đôi dép tổ ong màu trắng, 01 áo mưa chùm màu xanh tím than và các mảnh vỡ của con lợn gốm, bên ngoài có sơn màu đỏ, có hoa văn.

Trả lại bị cáo Đỗ Thanh M 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realame màu xanh gắn sim số 086511xxxx, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Trả lại chị Đỗ Thị Hồng N 01 chiếc xe máy Honda Wave màu xanh, biển kiểm sát 29X3-xxxxx, số khung 3916LY240045, số máy JA39E1577913 (Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/01/2023 với Công an huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đỗ Thanh M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Đỗ Thanh M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;