Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 10/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Lê Thanh B, sinh năm 1995 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T, sinh năm: 1958 và bà Lê Thị N, sinh năm: 1956; Hiện sống chung như vợ chồng với Huỳnh Thị Tuyết S, sinh năm 1994. Con: không có.

 Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 02/7/2021, bị Công an xã BP, thành phố BT ra Quyết định xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (QĐ số:35/QĐ-XPHC).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/7/2021 cho đến nay. Có mặt.

* Bị hại:

- Ông Bùi Thế S, sinh năm 1966. Có mặt.

Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Ông Nguyễn Trường A, sinh năm 1974. Có mặt

Nơi cư trú: ấp ATB, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1963. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Ông Lê Thanh Ph, sinh năm 1986. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp MAB, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Ông Nguyễn Thương M, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp MAB, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Hoàng S, sinh năm 1980. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp A, xã PN, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Ông Nguyễn Tấn Kh, sinh năm 1976. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp B, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Ông Châu Văn Đ, sinh năm 1977. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre

- Ông Lê Văn Th, sinh năm 1958. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp ATA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 19/4/2021 đến ngày 08/7/2021, trên địa bàn xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, bị cáo Lê Thanh B đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản của người khác như sau:

Vụ thứ nhất: Do biết vườn nhà ông Bùi Thế S ở ấp ATA, xã MTA, thành phố BT có trồng nhiều mai nên bị cáo nảy sinh ý định đào trộm mai bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định, khoảng 23 giờ ngày 19/4/2021, bị cáo mang theo cây xẻng và cây sứa đến vườn của ông S, dùng cây xẻng đào đất, dùng cây sứa cắt rễ và cành bứng lấy cây mai. Do trời gần sáng nên bị cáo giấu cây mai gần đó rồi đi về nhà. Đến khoảng 23 giờ ngày 20/4/2021, bị cáo đột nhập vào sân nhà của ông Nguyễn Đức M ở ấp ATA, xã MTA, thành phố BT lén lút lấy trộm chiếc xe kéo tự chế bằng khung sắt của ông M đem đến nơi giấu cây mai để vận chuyển cây mai vừa trộm cắp được. Đến khoảng 01 giờ ngày 21/4/2021, khi bị cáo đang vận chuyển cây mai ngang nhà ông S thì bị gia đình ông S phát hiện truy hô, bị cáo bỏ lại xe đẩy và cây mai rồi tẩu thoát. Đến ngày 23/4/2021, bị cáo đến Cơ quan Công an đầu thú. Vật chứng thu giữ:

- 01 cây mai chiều cao 2,85 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 60cm.

- 01 xe kéo tự chế bằng khung sắt, kích thước 80cm x 120cm, có hai bánh xe, tay cầm bằng sắt.

- 01 cây xẻng bằng kim loại màu xám, chiều dài 1,76 mét (phần lưỡi xẻng 26cm, rộng nhất 24cm).

- 01 cây sứa (cưa cầm tay) bằng kim loại màu đen dài 40cm (phần lưỡi dài dài 27 cm có một bên hình rằng cưa), cán bọc nhựa màu đen, không nhãn hiệu.

Theo các Bảng kết luận định giá trị tài sản số 610/KL-HĐĐG ngày 07/7/2021 và số 843/KL-HĐĐG ngày 14/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bn Tre kết luận:

- 01 cây mai chiều cao 2,85 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 60cm trị giá ngày 20/4/2021 là 14.500.000 đồng.

- 01 xe kéo (xe đẩy) khung bằng kim loại sắt, kích thước 80cm x 120cm, tay cầm bằng kim loại sắt, hai bánh xe lắp hai bên, trị giá ngày 20/4/2021 là 450.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 27/5/2021, bị cáo lấy xe đạp của cha là ông Lê Văn Th đến khu vực ấp ATB, xã MTA, thành phố BT với mục đích tìm nhà dân có trồng mai để lấy trộm. Khi chạy ngang nhà ông Nguyễn Trường A ở ấp ATB, xã MTA, thành phố BT thì phát hiện trước sân nhà ông A có trồng mai nên trở về nhà lấy cây xẻng và cây sứa đến để đào gốc và cắt rễ, cành. Sau khi cắt xong, do trời gần sáng nên bị cáo bỏ đi về nhà. Đến khoảng 22 giờ ngày 28/5/2021, bị cáo quay lại nhà ông A thì phát hiện cây mai bị cáo đào đêm trước đã được trồng nơi khác nhưng cũng trong khu vực sân nhà ông A. Bị cáo nhổ cây mai đem đến gần quãng trường xã MTA, thành phố BT cất giấu. Bị cáo thuê xe hoa lâm của người không rõ họ tên, địa chỉ chở cây mai đến nhà ông Nguyễn Tấn Kh ở ấp B, xã SĐ, thành phố BT gửi. Vật chứng thu giữ: 01 cây mai chiều cao 2,17 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 50cm, đường kính đế 75cm.

Theo Bảng kết luận định giá trị tài sản số 611/KL-HĐĐG ngày 07/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bến Tre kết luận: 01 cây mai chiều cao 2,17 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 50cm, đường kính đế 75cm trị giá ngày 28/5/2021 là 15.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 23 giờ ngày 06/7/2021, bị cáo lấy xe đạp của ông Th đến khu vực ấp MAB, xã MTA, thành phố BT với mục đích tìm nhà dân có trồng mai để lấy trộm. Khi chạy ngang nhà ông Lê Thanh Ph ở ấp MAB, xã MTA, thành phố BT thì thấy hai cây mai nên leo rào vào nhổ lấy 02 cây mai của anh Ph rồi đem ra giấu gần đó. Sau đó, bị cáo chạy xe đạp về nhà cất và lấy xe mô tô biển số 64-E1-307.29 của Châu Văn Đ cho mượn trước đó chở 02 cây mai vừa lấy được của anh Ph đến xã SP, huyện GT, tỉnh Bến Tre bán cho ông Trần Hoàng S được 4.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. Vật chứng thu giữ:

- 01 cây mai chiều cao 150cm, chu vi gốc (hoành gốc) 45cm.

- 01 cây mai chiều cao 170cm, chu vi gốc (hoành gốc) 56cm.

Theo Bảng kết luận định giá trị tài sản số 671/KL-HĐĐG ngày 06/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bến Tre kết luận:

- 01 cây mai chiều cao 150cm, chu vi gốc (hoành gốc) 45cm trị giá ngày 06/7/2021 là 3.500.000 đồng.

- 01 cây mai chiều cao 170cm, chu vi gốc (hoành gốc) 56cm, trị giá ngày 06/7/2021 là 4.000.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 22 giờ ngày 08/7/2021, bị cáo điều khiển xe đạp của ông Th đến khu vực ấp MAB, xã MTA, thành phố BT với mục đích tìm nhà dân có trồng mai để lấy trộm. Khi chạy ngang nhà ông Nguyễn Thương M ở ấp MAB, xã MTA, thành phố BT thì phát hiện 02 cây mai được trồng trong chậu nên vào nhổ lấy 02 cây mai của ông M đem giấu gần đó. Sau đó, bị cáo về nhà cất xe đạp và lấy xe mô tô biển số 64-E1-307.29 đến chở trước 01 cây mai định đem về nhà cất giấu. Khi chở ngang Thành đội Bến Tre thì bị ông Trần Anh Ph là cán bộ của Thành đội đang trực chốt phát hiện và báo Công an xã MTA đến mời bị cáo về làm việc. Vật chứng thu giữ:

- 01 cây mai chiều cao 190cm, chu vi gốc (hoành gốc) 30cm.

- 01 cây mai chiều cao 110cm, chu vi gốc (hoành gốc) 29cm.

- 01 xe mô tô biển số 64-E1-307.29, nhãn hiệu Wave, màu đen, bạc.

Theo Bảng kết luận định giá trị tài sản số 670/KL-HĐĐG ngày 05/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bến Tre kết luận:

- 01 cây mai chiều cao 190cm, chu vi gốc (hoành gốc) 30cm trị giá ngày 08/7/2021 là 5.000.000 đồng.

- 01 cây mai chiều cao 110cm, chu vi gốc (hoành gốc) 29cm, trị giá ngày 08/7/2021 là 3.000.000 đồng.

Cáo trạng số 94/CT-VKSTPBT ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố bị cáo Lê Thanh Bằng tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung cáo trạng và đề nghị:

Về hình phạt chính: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2, Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Lê Thanh B từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Về xử lý vật chứng:

+ Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả 01 cây mai cho ông Bùi Thế S, giao trả 01 chiếc xe kéo cho ông Nguyễn Đức M, giao trả 01 cây mai cho ông Nguyễn Trường A, giao trả 02 cây mai cho ông Lê Thanh Ph, giao trả 02 cây mai cho ông guyễn Thương M.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 cây xẻng bằng kim loại màu xám, chiều dài 1,76 mét (phần lưỡi xẻng 26cm, rộng nhất 24cm); 01 cây sứa (cưa cầm tay) bằng kim loại màu đen dài 40cm (phần lưỡi dài dài 27 cm có một bên hình rằng cưa), cán bọc nhựa màu đen, không nhãn hiệu.

+ Giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre 01 xe mô tô biển số 64-E1-307.29, nhãn hiệu Wave, màu đen, bạc để tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo thẩm quyền.

Về trách nhiệm dân sự + Ghi nhận các bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm.

+ Ghi nhận người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng S không yêu cầu bị cáo trả lại 4.000.000 đồng tiền bỏ ra mua 02 cây mai sau đó bị thu hồi.

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố, không khiếu nại các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị cáo sống chung như vợ chồng với Huỳnh Thị Tuyết S và có 01 con chung sinh năm 2021 nhưng do chưa đăng ký kết hôn nên chưa làm khai sinh cho con của bị cáo được. Lời sau cùng: bị cáo xin lỗi các bị hại vì đã trộm tài sản của các bị hại, bị cáo rất hối hận về hành vi đã gây ra và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về chăm sóc cha già, con nhỏ.

- Bị hại ông Bùi Thế S trình bày: ông đã nhận lại 01 cây mai chiều cao 2,85 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 60cm từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre. Cây đã được trồng lại và vẫn còn sống nhưng không phát triển tốt như trước do bị mất sức nhiều, ông không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý hành vi của bị cáo theo quy định của pháp luật.

- Bị hại ông Nguyễn Trường A trình bày: ông đã nhận lại 01 cây mai chiều cao 2,17 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 50cm, đường kính đế 75cm từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre. Cây hiện nay đã chết nhưng ông không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý hành vi của bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án tống đạt hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, họ đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra, đủ cơ sở xác định: Xuất phát từ mục đích tư lợi bất chính, trong khoảng thời gian từ ngày 19/4/2021 đến ngày 08/7/2021, trên địa bàn xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, bị cáo Lê Thanh B đã thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, chiếm đoạt của ông Bùi Thế S 01 cây mai trị giá 14.500.000 đồng, chiếm đoạt của ông Nguyễn Đức M 01 xe đẩy trị giá 450.000 đồng, chiếm đoạt của ông Nguyễn Trường A 01 cây mai trị giá 15.000.000 đồng, chiếm đoạt của ông Lê Thanh Ph 02 cây mai với tổng trị giá 7.500.000 đồng và chiếm đoạt của ông Nguyễn Thương M 02 cây mai với tổng trị giá 8.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của các bị hại là 45.450.000 đồng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận biết rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi bất chính, bị cáo đã cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố bị cáo B về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật định.

[4] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, lợi dụng chủ sở hữu thiếu cảnh giác trong việc quản lý tài sản đã thực hiện hành vi phạm tội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Khi bị cáo thực hiện tội phạm đã gây ra tâm lý lo sợ cho quần chúng nhân dân trong lao động, trong sinh hoạt hàng ngày.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân xấu, hiện không có tiền án nhưng đang có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản.

Các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng là “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, “Đầu thú”, có bà nội tên Lê Thị Á được Nhà nước tặng huy chương kháng chiến hạng nhì và bác ruột tên Lê Văn L được tặng kỷ niệm chương chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù, đầy theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh đối với bị cáo Lê Thanh B là “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả 01 cây mai chiều cao 2,85 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 60cm cho ông Bùi Thế S, giao trả 01 xe kéo tự chế bằng khung sắt, kích thước 80cm x 120cm, có hai bánh xe, tay cầm bằng sắt cho ông Nguyễn Đức M, giao trả 01 cây mai chiều cao 2,17 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 50cm, đường kính đế 75cm cho ông Nguyễn Trường A, giao trả 01 cây mai chiều cao 150cm, chu vi gốc (hoành gốc) 45cm và 01 cây mai chiều cao 170cm, chu vi gốc (hoành gốc) 56cm cho ông Lê Thanh Ph, giao trả 01 cây mai chiều cao 190cm, chu vi gốc (hoành gốc) 30cm và 01 cây mai chiều cao 110cm, chu vi gốc (hoành gốc) 29cm cho ông Nguyễn Thương M là phù hợp nên ghi nhận.

- Đối với 01 cây xẻng bằng kim loại màu xám, chiều dài 1,76 mét (phần lưỡi xẻng 26cm, rộng nhất 24cm) là tài sản của ông Th nhưng ông không có yêu cầu nhận lại và 01 cây sứa (cưa cầm tay) bằng kim loại màu đen dài 40cm (phần lưỡi dài dài 27 cm có một bên hình rằng cưa), cán bọc nhựa màu đen, không nhãn hiệu là tài sản của bị cáo đã dùng làm công cụ, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội và hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 64-E1-307.29 nhãn hiệu Wave, màu đen, bạc: do chưa xác định được chủ sỡ hữu nên cần giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre để tiếp tục điều tra, làm rõ chủ sở hữu hợp pháp và xử lý theo thẩm quyền.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại ông Bùi Thế S đã nhận lại 01 cây mai chiều cao 2,85 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 60cm; ông Nguyễn Đức M đã nhận lại 01 xe kéo tự chế bằng khung sắt, kích thước 80cm x 120cm, có hai bánh xe, tay cầm bằng sắt; ông Nguyễn Trường A đã nhận lại 01 cây mai chiều cao 2,17 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 50cm, đường kính đế 75cm; ông Lê Thanh Ph đã nhận lại 01 cây mai chiều cao 150cm, chu vi gốc (hoành gốc) 45cm và 01 cây mai chiều cao 170cm, chu vi gốc (hoành gốc) 56cm, ông Nguyễn Thương M đã nhận lại 01 cây mai chiều cao 190cm, chu vi gốc (hoành gốc) 30cm và 01 cây mai chiều cao 110cm, chu vi gốc (hoành gốc) 29cm, các bị hại tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên ghi nhận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng S tự nguyện không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 4.000.000 đồng mua 02 cây mai sau đó bị thu hồi nên ghi nhận.

[9] Về hình phạt bổ sung: do bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[10] Đối với ông Châu Văn Đ khi cho bị cáo mượn xe mô tô biển kiểm soát 64-E1-307.29 và ông Lê Văn Th khi cho bị cáo lấy xe đạp sử dụng không biết bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, ông Trần Hoàng S khi mua 02 cây mai do bị cáo bán và ông Nguyễn Tấn Kh khi cho bị cáo gửi cây mai không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Bằng phải nộp theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Thanh B 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 22/7/2021.

2. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả 01 (một) cây mai chiều cao 2,85 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 60cm cho ông Bùi Thế S, giao trả 01 (một) xe kéo tự chế bằng khung sắt, kích thước 80cm x 120cm, có hai bánh xe, tay cầm bằng sắt cho ông Nguyễn Đức M, giao trả 01 (một) cây mai chiều cao 2,17 mét, chu vi gốc (hoành gốc) 50cm, đường kính đế 75cm cho ông Nguyễn Trường A, giao trả 01 (một) cây mai chiều cao 150cm, chu vi gốc (hoành gốc) 45cm và 01 (một) cây mai chiều cao 170cm, chu vi gốc (hoành gốc) 56cm cho ông Lê Thanh Ph, giao trả 01 (một) cây mai chiều cao 190cm, chu vi gốc (hoành gốc) 30cm và 01 (một) cây mai chiều cao 110cm, chu vi gốc (hoành gốc) 29cm cho ông Nguyễn Thương M.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây xẻng bằng kim loại màu xám, chiều dài 1,76 mét (phần lưỡi xẻng 26cm, rộng nhất 24cm) và 01 (một) cây sứa (cưa cầm tay) bằng kim loại màu đen dài 40cm (phần lưỡi dài dài 27 cm có một bên hình rằng cưa), cán bọc nhựa màu đen, không nhãn hiệu.

- Giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre 01 (một) xe mô tô biển số 64-E1-307.29 nhãn hiệu Wave, màu đen, bạc để tiếp tục điều tra, làm rõ chủ sở hữu và xử lý theo thẩm quyền.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/12/2021 hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre đang quản lý).

Ghi nhận các bị hại ông Bùi Thế S, ông Nguyễn Đức M, ông Nguyễn Trường A, ông Lê Thanh Ph, ông Nguyễn Thương M đã nhận lại các tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo Lê Thanh B gì thêm.

Ghi nhận người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng S không yêu cầu bị cáo Lê Thanh B trả lại 4.000.000 (Bốn triệu) đồng tiền bỏ ra mua 02 cây mai sau đó bị thu hồi.

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lê Thanh B phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;