Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Công T, sinh ngày 17 tháng 12 năm 1993 tại huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã L, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 2/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Công P và bà Dương Thị Đ; vợ Hoàng Thị V và 02 người con; tiền án: 02 tiền án, tại bản án số 16/2014/HSST ngày 27/5/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Gia xử phạt 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tại bản án số 15/2020/HSST ngày 01/7/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Gia xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tiền sự: Không; nhân thân: Xấu; bị bắt tạm giam từ ngày 19/12/2021 đến nay. Có mặt.

* Bị hại: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1971. Địa chỉ: Khối phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Quang T1. Vắng mặt.

2. Anh Nông Qúy N. Vắng mặt.

3. Anh Hoàng Đức N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/12/2021, Hoàng Công T từ nhà lên đường Quốc lộ 1B để đón xe khách sang huyện B mục đích trộm cắp tài sản là dê, T chuẩn bị sẵn một đoạn dây thừng, 01 bao tải dứa màu đen, khi đi xe sang đến đoạn B thuộc khối phố T, thị trấn B thì Thanh xuống xe đi theo đường mòn vào lân B, đi được khoảng 20 mét thì phát hiện thấy 01 đàn dê khoảng 06-07 con của ông Hoàng Văn D đang được chăn thả, quan sát xung quanh thấy không có người trông coi, T tiến đến gần đàn dê và đuổi bắt được một con dê cái, lông màu nâu đen, T dùng tay trái giữ lấy hai chân sau, tay phải lấy sợi dây thừng từ trong túi áo khoác ra buộc lại, rồi buộc hai chân trước, sau đó cho dê vào chiếc bao tải dứa màu đen để đầu dê thò ra ngoài rồi dùng hai tay vận chuyển con dê xuống đường Quốc lộ 1B. Cách Quốc lộ 1B khoảng 05 mét Thanh dừng lại và ngồi xuống đợi xe khách, khoảng 15 phút sau thì anh Trần Quang T1 và anh Nông Quý N trên đường đi rừng phát hiện và ngăn cản không cho Thanh mang dê lên xe ô tô khách về huyện B, T bỏ dê lại ở mương thoát nước cạnh đường Quốc lộ 1B rồi đi bộ lên nhà Hoàng Đức N cách đấy hơn 100 mét đề nhờ N chở sang huyện B.

Cùng ngày anh Hoàng Văn D có đơn trình báo đến Công an thị trấn B về việc bị mất một con dê, Công an huyện Bình Gia phối hợp với Công an thị trấn Bình Gia triệu tập Hoàng Công T đến làm việc, tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Hoàng Công T khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản (dê) của anh Hoàng Văn D, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Gia lập biên bản về đặc điểm, trọng lượng con dê để phục vụ công tác điều tra xử lý Ngày 19/12/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Gia đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Bình Gia định giá con dê bị Hoàng Công T trộm cắp có trọng lượng 33,5 kg. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 23/KL- HĐĐGTS ngày 19/12/2021 của Hội định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Gia kết luận: Con dê bị trộm cắp có trị giá 4.355.000đ (bốn triệu ba trăm năm mươi năm nghìn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 04/CT-VKSBG ngày 02/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Hoàng Công T về tội Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Công T khai nhận, hành vi trộm cắp tài sản như Cáo trạng truy tố ra trước Tòa là đúng.

Bị hại anh Hoàng Văn D vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xử vắng mặt ghi rõ trình bày là anh đã nhận lại dê; không có ý kiến bồi thường gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo đúng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Công T phạm tội Trộm cắp tài sản:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Công T từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 19/12/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo vì bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy, sống phụ thuộc gia đình, không có thu nhập, tài sản riêng.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao tải dứa màu đen, 01 đoạn dây thừng dài 4,9m cũ đã qua sử dụng của Hoàng Công T dùng làm công cụ phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát; lời nói sau cùng bị cáo xin đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc xét xử vắng mặt bị hại anh Hoàng Văn D; người làm chứng anh Trần Quang T1, anh Nông Qúy N, anh Hoàng Đức N được Tòa án nhân dân huyện Bình Gia triệu tập hợp lệ đến phiên tòa. Xét thấy bị cáo yêu cầu xử vắng mặt; mặt khác trong hồ sơ cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai những người này, bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội. Bị hại cũng có đơn xin xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt của bị hại anh Hoàng Văn D; người làm chứng anh Trần Quang T1, anh Nông Qúy N, anh Hoàng Đức N không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; do đó căn cứ khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người trên.

[3] Về căn cứ buộc tội: Tại phiên toà bị cáo Hoàng Công T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và cũng phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Khoảng 13 giờ 30 phút Ngày 18/12/2021 tại khối phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, Hoàng Công T đã có hành vi trộm cắp tài sản là 01 con dê của anh Hoàng Văn D, trị giá là 4.355.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo Hoàng Công T đã có 02 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Trộm cắp tài sản. Trong đó bản án số 15/2020/HSST ngày 01/7/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Gia xử phạt 18 tháng tù đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 53 Bộ luật hình sự: “2.Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:…b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”; như vậy hành vi trộm cắp tài sản ngày 18/12/2021 của bị cáo Hoàng Công T thuộc tình tiết tăng nặng định khung “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó có căn cứ xác định bị cáo Hoàng Công T phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia truy tố bị cáo hoàn toàn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng hành vi của bị cáo thực hiện là coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi đó cần phải được xử nghiêm minh trước pháp luật.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện chất ma túy, đã có 02 tiền án, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình bị pháp luật hình sự nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện, điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật.

[8] Về hình phạt bổ sung quy định trong luật, tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện chất ma túy, không có tài sản và thu nhập ổn định theo biên bản xác minh ngày 14/02/2022 của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Gia nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao tải dứa màu đen, 01 đoạn dây thừng dài 4,9m cũ đã qua sử dụng của Hoàng Công T dùng làm công cụ phạm tội. Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Gia đã trả lại tài sản 01 con dê cho anh Hoàng Văn D là chủ sở hữu hợp pháp (theo biên bản giao nhận ngày 18/12/2021 của Công an huyện Bình Gia) để quản lý sử dụng.

[11] Căn cứ theo Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Công T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt cũng như các ván đề khác đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 262; khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Công T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Hoàng Công T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 19/12/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao tải dứa màu đen, 01 đoạn dây thừng dài 4,9m cũ đã qua sử dụng của Hoàng Công T dùng làm công cụ phạm tội.

Những vật chứng, tài sản trên được ghi theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Gia với Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Gia ngày 03 tháng 3 năm 2022.

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Gia đã trả lại tài sản 01 con dê cho anh Hoàng Văn D là chủ sở hữu hợp pháp (theo biên bản giao nhận ngày 18/12/2021 của Công an huyện Bình Gia) để quản lý sử dụng.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Công T phải chịu 200.000 đồng(hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị hại báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;