Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, thành phố Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2023/QĐXXST–HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

TRẦN PHÚ K, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 16 tháng 5 năm 1998 tại Q; Nơi thường trú và chổ ở hiện nay: Thôn 2, xã T, huyện T, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Phú G (sinh năm 1962) và bà Phạm Thị Hồng D (sinh năm 1973), gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ ba.

Tiền án: Không Tiền sự:

Ngày 24/01/2019 bị TAND quận 12 thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đến ngày 01/02/2000 chấp hành xong.

Ngày 26/02/2021 bị Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Q ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng.

Bị cáo hiện đang tạm giam trong vụ án khác, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Phạm Ngọc S. Sinh năm 1998. Trú tại: 445 T Chinh, phường An Khê, quận T, thành phố Đ, Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Văn H, Sinh năm: 1997 Trú tại: Thôn Ba Hương, xã Trà Đông, huyện B, tỉnh Q, Vắng mặt.

2/ Nguyễn Cao Th, Sinh năm: 1988 Trú tại: Thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện H, thành phố Đ, Vắng mặt.

3/ Phạm Ngọc T, Sinh năm: 1994 Trú tại: Thôn 1, xã Tiên An, huyện T, tỉnh Q, Vắng mặt.

4/ Trần Thị Hồng My, Sinh năm: 1994 Trú tại: Thôn Phước Xuyên, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Q, Vắng mặt.

5/ Phạm Đình Th, Sinh năm: 1968 Trú tại: Thôn 1, xã Tiên An, huyện T, tỉnh Q, Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Phú K và Phạm Ngọc S (sinh năm 1998; trú tại 445 T Chinh, P. An Khê, Q. T, TP. Đ) là bạn cùng quê với nhau.

Lúc 07 giờ 30 phút ngày 30/5/2023, anh Phạm Ngọc S đóng cửa xưởng cơ khí tại 445 T Chinh, P. An Khê, Q. T, TP. Đ rồi đi làm. Lúc này, anh S có để 01 xe Vario 125 màu đen mang BKS: 92M1-xxxxx trước cửa xưởng, có khóa cổ. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn H, là nhân viên của xưởng có quay về xưởng để lấy thêm đồ nghề để đi làm thì phát hiện Trần Phú K đang ngồi trước xưởng. Khi H mở xưởng vào lấy đồ thì K cũng vào theo, lúc này H có gọi cho S thông báo có K đến xưởng thì nghe S nói “kệ hắn đi” nên H cũng mặc kệ K nằm chơi ở xưởng rồi lấy đồ nghề đi làm tiếp mà không khóa cửa xưởng.

Đến 12 giờ 50 phút cùng ngày, lợi dụng không có ai tại xưởng, K lấy trộm chìa khóa tại bàn máy vi tính trong xưởng rồi ra mở khoá xe, điều khiển xe mô tô Honda Vario 125 màu đen biển kiểm soát 92M1-xxxxx của S đang để phía trước xưởng bỏ đi. Sau khi lấy trộm được xe mô tô, K điều khiển xe đi đến hộ kinh doanh mua bán sữa chữa điện thoại, máy tính, dịch vụ cầm đồ Nguyễn Cao Th tại thôn Giáng Nam 2, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, TP. Đ gặp anh Nguyễn Cao Th là chủ tiệm. Do anh Th và Trần Phú K có mối quan hệ quen biết từ trước, tại đây K nói với Th là cho K mượn 3.500.000 đồng và để lại xe Vario BKS 92M1-xxxxx của K cho Th để làm tin, hẹn sẽ trả lại tiền sớm cho Th, do số tiền nhỏ nên Th đồng ý cho mượn. Số tiền có được K đã tiêu xài hết.

Sau khi phát hiện xe bị mất, lúc 20 giờ 10 phút ngày 30/5/2023, anh S đến Công an phường An Khê trình báo vụ việc.

Tối ngày 30/5/2023, anh Phạm Ngọc T là anh ruột của S đến nhà của K tại thôn Phước Xuyên, xã Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Q để yêu cầu gia đình của K liên hệ trả xe cho S. Đến ngày 03/6/2023, K liên lạc với chị Trần Thị Hồng My là chị ruột của K để mượn tiền chuộc lại xe. Ngày 04/6/2023, anh Nguyễn Văn Hương là anh rể của K và chị Trần Thị Hồng My đến tiệm cầm đồ gặp anh Nguyễn Cao Th để chuộc lại xe Vario 125, BKS 92M1- xxxxx và trả lại xe trên cho anh Phạm Ngọc S.

Vật chứng tạm giữ và xử lý vật chứng:

- Qua trích xuất camera thu giữ: 01 usb chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh Trần Phú K thực hiện hành vi trộm cắp xe tại 445 T Chinh, P. An Khê, Q. T, TP. Đ.

- 01 xe mô tô Honda Vario 125 màu đen BKS 92M1-xxxxx.

Quá trình điều tra xác định, xe mô tô trên do ông Phạm Đình Th (sinh năm:

1968; HKTT: thôn 01, xã Tiên An, huyện T, tỉnh Q) đứng tên chủ sở hữu. Ông Th giao chiếc xe cho con là anh Phạm Ngọc S quản lý, sử dụng đi lại và bị mất trộm. Ngày 25/9/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T đã trả lại xe cho người quản lý hợp pháp là anh Phạm Ngọc S.

Tại Kết luận định giá tài sản số 93 ngày 27/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận T xác định: 01 xe máy Honda Vario màu đen BKS 92M1-xxxxx, số khung MH1JM4117NK877257, số máy JM41E1876284, đăng ký lần đầu ngày 04/01/2023, trị giá: 31.200.000 đồng.

Trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Ngọc S đã nhận lại xe, không có yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho K. Anh Phạm Cao Th đã nhận lại 3.500.000 đồng và không có yêu cầu gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số 143/QĐ-VKS-TK ngày 24/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ truy tố bị cáo Trần Phú K về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa hôm nay giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Phú K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Trần Phú K mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Phú K cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T, thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra quận T, thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trần Phú K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 30/5/2023, tại xưởng cơ khí ở số 445 T Chinh, P. An Khê, Q. T, TP. Đ, Trần Phú K đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Honda Vario màu đen BKS 92M1-xxxxx của anh Phạm Ngọc S trị giá: 31.200.000 đồng. (ba mươi mốt triệu hai trăm ngàn đồng).

Hành vi của bị cáo Trần Phú K đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Bị cáo Trần Phú K có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng để làm ăn lương thiện nên đã phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất lòng tin trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[4] Xét về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Không có - Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; người bị hại đã nhận lại số tiền khắc phục hậu quả và người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cũng cần xem xét cho bị cáo mức hình phạt phù hợp khi lượng hình để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Cao Th có hành vi nhận cầm cố 01 xe Vario BKS 92M1-xxxxx do K mang đến, không biết xe do K trộm cắp mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T không xử lý hình sự là có cơ sở.

[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo, HĐXX xét thấy phù hợp nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[6] Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Đ về tội danh và áp dụng các điều luật là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

[8] Án phí HSST: Bị cáo Trần Phú K phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Phú K phạm tội "Trộm cắp tài sản".

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Phú K: 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Phú K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

3. Án xử công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;