Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 127/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Đoàn Văn T, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1995. Nơi cư trú: Xóm Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn T, sinh năm 1951 và bà Hà Thị D, sinh năm 1953; Vợ: Hoàng Thị Q, sinh năm 2001: Con: có một con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/11/2022 cho đến nay, Hiện đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại:

1. Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1976; Trú tại: Khối 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh N. (Vắng mặt)

2. Anh Lê Đình H, sinh năm 1992; Trú tại: Xóm H Thịnh, xã Thịnh Th, huyện Y, tỉnh N. (Vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Đăng Th, sinh năm 1982; Trú tại: Xóm 3, xã Văn Sơn, huyện Đ, tỉnh N. (Vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1982; Trú tại: Xóm Q, xã M, huyện Y, tỉnh N. (Vắng mặt)

2. anh Trần Hoàng L, sinh năm 1966; Trú tại: Xóm 02, xã Đà Sơn, huyện Đ, tỉnh N. (Vắng mặt)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ ngày 24/10/2022 đến ngày 08/11/2022 Đoàn Văn T- Sinh ngày đã thực hiện 04 hành vi trộm cắp tài sản với mục đích bán lấy tiền để mua ma tuý sử dụng. Cụ thể như sau:

Hành vi thứ nhất: Sáng ngày 24/10/2022, T bắt xe buýt một mình từ nhà ở xã Đ, huyện C, tỉnh N đến khu vực huyện Đ, tỉnh N với mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đến địa phận xã Đà Sơn, huyện Đ, tỉnh N, T xuống xe buýt rồi đi tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Đến khoảng 06 giờ 30 phút cùng ngày, T thấy trước cổng nhà anh Trần Hoàng L- Sinh năm: 1966, trú tại xóm 02, xã Đà Sơn, huyện Đ, tỉnh N có 01 (một) chiếc xe mô tô màu nâu, nhãn hiệu ANGEL không có biển kiểm soát, vẫn để chìa khoá xe ở ổ khoá đang dựng trước cổng nhà. Sau đó, T quan sát không có ai nên đã lấy trộm chiếc xe đó và điều khiển chiếc xe mô tô đến khu vực huyện Y để bán. Sau khi đến nơi, T thấy cửa hàng bán sắt vụn của chị Nguyễn Thị L- Sinh năm: 1982, trú tại xóm Q, xã M, huyện Y, tỉnh N nên đã vào quán và trao đổi. T đã đưa ra nhiều thông tin gian dối làm cho chị Nguyễn Thị L tin tưởng và không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên T đã bán cho chị L chiếc xe mô tô trộm cắp với số tiền là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Sau khi bán xong, T tiếp tục đi bộ rồi bắt xe buýt từ huyện Y đi đến khu vực xã Đà Sơn, huyện Đ, tỉnh N để mua ma tuý sử dụng, khi đến nơi, T gặp 01 người đàn ông không quen biết rồi T hỏi mua ma tuý với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), số ma tuý này T đã đem về nhà sử dụng hết. Số tiền còn lại T đã tiêu xài cá nhân hết.

Hành vi thứ hai: Vào chiều ngày 27/10/2022, do không có tiền để mua ma tuý sử dụng nên T đã bắt xe buýt từ nhà đi lên thị trấn Đ với mục đích trộm cắp tài sản. Sau khi đến nơi, T xuống xe buýt rồi đi bộ một mình để tìm kiếm tài sản. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, T đi bộ đến khu vực xã Văn Sơn, huyện Đ thì thấy có 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại cup 81, màu xanh, BKS: 37-xxxxx vẫn để chìa khoá xe ở ổ khoá của anh Nguyễn Đăng Th- Sinh năm: 1982, trú tại: Xóm 03, xã Văn Sơn, huyện Đ, tỉnh N đang dựng trước cửa nhà sát lề đường quốc lộ 7. Sau đó, T lấy trộm chiếc xe máy đó và điều khiển đi đến huyện Y và bán cho 01 ( một) người đàn ông ở cửa hàng bán sắt vụn mà T không nhớ tên, địa chỉ với số tiền là 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng). Bán xong T lại tiếp tục bắt xe buýt đi đến khu vực xã Đà Sơn, huyện Đ rồi gặp người đàn ông không quen biết và T hỏi mua ma tuý với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), số ma tuý này T cũng đem về nhà sử dụng hết. Số tiền còn lại T đã tiêu xài cá nhân hết.

Hành vi thứ ba: Ngày 03/11/2022, do không có tiền để mua ma tuý sử dụng nên T đã bắt xe buýt từ nhà đến huyện Đ để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi đến khu vực thị trấn huyện Đ, tỉnh N (gần chợ thương mại cũ) thì T xuống xe buýt. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, khi đi bộ đến khu vực bờ đê nam sông đào thuộc xóm 01, xã Đông Sơn, huyện Đ, tỉnh N thì T thấy có 01 (một) chiếc xe mô tô mang nhãn hiệu AILES, màu xanh bạc, BKS 37Z5-xxxxx và vẫn để chìa khoá xe ở ổ khoá của anh Lê Đình H- Sinh năm: 1992- Trú tại: Xóm H Thịnh, xã Thịnh Th, huyện Y, tỉnh N. Lúc này, T quan sát xung quanh không có ai nên đã lấy trộm chiếc xe mô tô và điều khiển chiếc xe mô tô hướng lên Thị trấn Đ rồi đi về huyện Y. Khi đi đến nơi, T thấy có cửa hàng bán sắt vụn nên T vào gặp 01 (một) người đàn ông không quen biết và trao đổi với người đàn ông đó bán với giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng). Sau khi bán xong, T bắt xe buýt để đi đến khu vực thị trấn huyện Đ, tỉnh N để tìm mua ma tuý với mục đích để sử dụng.

Khi đi qua khu vực đê T không nhớ địa chỉ, T gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi rồi mua ma tuý với người đàn ông đó với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), số ma tuý này T đem đến khu vực bụi cây gần đó rồi sử dụng hết. Số tiền còn lại T đã tiêu xài cá nhân hết.

Hành vi thứ tư: Vào ngày 07/11/2022, T bắt xe buýt một mình từ nhà đến huyện T để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi đến khu vực thị trấn huyện T, tỉnh N thì T xuống xe buýt, do không tìm được tài sản nào để thực hiện hành vi nên T đã ngủ lại ở khu vực nghĩa trang gần thị trấn. Đến khoảng 03 giờ sáng ngày 08/11/2022, T đi bộ một mình đến khu vực vòng xuyến thì T phát hiện trước cửa nhà anh Nguyễn Quang T- Sinh năm:

1976, trú tại: Khối 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh N có dựng 01 (một) chiếc xe máy điện mang nhãn hiệu MICHISX, màu đỏ, không gắn biển kiểm soát. D không có ai xung quanh nên T đã lấy trộm và đẩy bộ chiếc xe máy điện về huyện Đ rồi T tiếp tục bắt xe khách không nhớ tên, sau đó, T đưa xe máy điện lên xe khách đó về cất giấu ở khu vực bụi cây trên đồi gần nhà của mình.

Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, T được cơ quan Công an xã Đông Sơn, huyện Đ mời lên làm việc thì T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Chiếc xe máy điện T trộm được đã nộp cho cơ quan Công an theo quy định. D biết được chiếc xe mô tô màu nâu, nhãn hiệu ANGEL không có biển kiểm soát là tài sản trộm cắp mà có nên ngày 10/11/2022 chị Nguyễn Thị L đã giao nộp chiếc mô tô mua được giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ để phục vụ cho việc điều tra vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐG ngày 14/11/2022 Ủy ban nhân dân huyện Đ kết luận:

Giá trị chiếc xe máy điện mang nhãn hiệu MICHISX, màu đỏ, không gắn biển kiểm soát, xe đã qua sử dụng tại thời điểm tháng 11/2022 ở địa bàn huyện Đ là 2.400.000 đồng (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng) Giá trị chiếc xe mô tô màu nâu, nhãn hiệu ANGEL không có biển kiểm soát, đã qua sử dụng, tại thời điểm tháng 10/2022 ở địa bàn huyện Đ là 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng).

Giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại cup 81, màu xanh, BKS:

37-xxxxx, số khung: 9290159, số máy: 9290426 đăng ký lần đầu ngày 24/4/1992, tại thời điểm tháng 10/2022 ở địa bàn huyện Đ là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Giá trị chiếc xe mô tô mang nhãn hiệu AILES, màu xanh bạc, BKS 37Z5-xxxxx, đăng ký lần đầu ngày 17/12/2007, tại thời điểm tháng 11/2022 ở địa bàn huyện Đ là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Về vật chứng của vụ án:

01 (một) USB chứa dữ liệu điện tử hình ảnh trích sao đoạn camera ghi hình Đoàn Văn T trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại cup 81, màu xanh, MKS: 37-xxxxx của anh Nguyễn Đăng Th ngày 27/10/2022 hiện lưu kèm hồ sơ vụ án.

- Về phần dân sự: Anh Trần Hoàng L và anh Nguyễn Quang T đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ trả lại tài sản nên các anh không có yêu cầu bồi thường gì.

Đối với anh Nguyễn Đăng Th yêu cầu bồi thường với số tiền là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), anh Lê Đình H yêu cầu bồi thường 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 09/CT-VKS-ĐL ngày 29/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh N truy tố Đoàn Văn T về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh N giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản". Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Đăng Th số tiền 2.500.000 đồng; bồi thường cho anh Lê Đình H 2.500.000 đồng.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự.

Truy thu số tiền 600.000 đồng từ bị cáo T để sung quỹ nhà nước.

- Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến gì tranh luận.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt và không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. D đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 292, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Đoàn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Đoàn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: Trong thời gian từ 24/10/2022 đến 08/11/2022 Đoàn Văn T đã lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản đã thực hiện 03 hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể: Vào khoảng 12 giờ ngày 27/10/2022, tại khu vực xã Văn Sơn, huyện Đ, tỉnh N, Đoàn Văn T đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại cup 81, màu xanh, BKS: 37-xxxxx của anh Nguyễn Đăng Th có giá là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng); Vào khoảng 07 giờ ngày 03/11/2022, tại khu vực xã Đông Sơn, huyện Đ, tỉnh N, Đoàn Văn T đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô mang nhãn hiệu AILES, màu xanh bạc, vành tăm, BKS 37Z5-xxxxx của anh Lê Đình H có giá trị 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng); Vào khoảng 03 giờ ngày 08/11/2022, tại khu vực thị trấn T, huyện T, tỉnh N, Đoàn Văn T đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe máy điện mang nhãn hiệu MICHISX, màu đỏ, không gắn biển kiểm soát của anh Nguyễn Quang T có giá là 2.400.000 đồng (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng). Như vậy T đã có hành vi trộm cắp với tổng số tiền 7.400.000 đồng. D đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Đoàn Văn T về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có cơ sở.

[5] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là liều lĩnh, xem thường pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến tài sản cá nhân mà pháp luật bảo vệ, gây tâm lý bất an trong xã hội. Bị cáo Đoàn Văn T có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Cần thiết phải lên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên cũng cần xem xét: Sau khi phạm tội bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, Bố của bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huy chương chống Mỹ cứu nước hạng nhì. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 (một) chiếc USB chứa dữ liệu điện tử hình ảnh trích sao đoạn camera ghi hình T trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA của anh Nguyễn Đăng Th cần tiếp tục lưu kèm hồ sơ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Trần Hoàng L và anh Nguyễn Quang T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

Đối với anh Nguyễn Đăng Th yêu cầu bồi thường với số tiền là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), anh Lê Đình H yêu cầu bồi thường 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Xét đây là yêu cầu hợp lý nên buộc bị cáo T phải bồi thường cho anh Th và anh H.

[8] Trong vụ án này, đối với chị Nguyễn Thị L là người đã mua xe của bị can Đoàn Văn T, qua xác minh do quá trình trao đổi mua bán chị L không biết được tài sản đó là do trộm cắp mà có, hơn nữa, sau khi biết được thông tin về nguồn gốc của tài sản nên chị đã giao nộp chiếc xe mô tô cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ nên không có căn cứ để xử lý đối với hành vi của chị.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 24/10/2022 của Đoàn Văn T đã trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô màu nâu, nhãn hiệu ANGEL không có biển kiểm soát của anh Trần Hoàng L có giá trị là 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã chuyển cho Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

[9] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội; buộc bị cáo Đoàn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự.

[10] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Đoàn Văn T 01 (Một) năm 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam bị cáo 08/11/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự;

Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 Bộ luật dân sự;

Buộc bị cáo Đoàn Văn T phải bồi thường cho anh Nguyễn Đăng Th, sinh năm 1982, trú tại: Xóm 3, xã Văn Sơn, huyện Đ, tỉnh N số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm đồng).

Bồi thường cho anh Lê Đình H, sinh năm 1992, trú tại: Xóm H Thịnh, xã Thịnh Th, huyện Y, tỉnh N số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành bản án có hiệu lực pháp luật, nếu không thi hành, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Truy thu từ bị cáo Đoàn Văn T số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng) sung quỹ nhà nước.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội: Buộc bị cáo Đoàn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Đoàn Văn T có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;