TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2023/HS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 và thông báo hoãn phiên tòa ngày 20 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:
Đặng Vũ Đ, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Ấp 3, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị L; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: 01 (Ngày 07/12/2022 Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 745/QĐ-XPHC, số tiền: 2.000.000 đồng đối với Đặng Vũ Đ có hành vi “Trộm cắp tài sản” hiện chưa đóng phạt); nhân thân: Ngày 18/4/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xử phạt 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản” theo bản án số 30/2017/HS-PT, đã chấp hành xong 18/7/2021; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/7/2023 cho đến nay. Có mặt.
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Lư Trường T, văn phòng luật sư Nguyễn Văn B thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hậu Giang
- Bị hại:
+ Trần Văn S, sinh năm: 1967; Địa chỉ: Ấp 8, xã VT, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.Vắng mặt.
+ Thân Thị Huyền T, sinh năm: 1976; Địa chỉ: Ấp 3, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
+ Nguyễn Thị Cẩm X, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Ấp 11, xã VT, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
+ Kim B, sinh năm: 1965; Địa chỉ: Ấp 8, xã VT, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
+ Võ Hoàng A, sinh năm: 1968; Địa chỉ: Ấp 3, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+Hồ Tấn H, Địa chỉ: Ấp 1, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 10/4/2023, Đặng Vũ Đ đang ở ấp 1, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang thì Giàu (không rõ nhân thân) đến tìm Đ rủ đi trộm cắp tài sản thì Đ đồng ý, lúc này G điều khiển xe phía trước (không rõ biển số xe), Đ chạy xe mô tô biển kiểm soát 95B1-X chạy theo sau khi đến nhà anh Trần Văn Sang thì Đ đi vào nhà của anh S trộm một con gà trống (lông màu trắng) có trọng lượng 2,7kg bị anh S phát hiện nên giữ Đ lại và trình báo Công an xã VT, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang (bút lục: 03-05).
Căn cứ vào kết luận định giá số 34/KL-HĐ.ĐGTS ngày 02/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản-UBND huyện Vị Thuỷ, tỉnh Hậu Giang, kết luận (bút lục: 33): Một con gà trống, trọng lượng 2,7kg lông màu trắng. Tổng giá trị tài sản: 324.000 đồng (Ba trăm hai mươi bốn ngàn đồng).
Ngày 10/04/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang ra quyết định trưng cầu Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ đối với Đặng Vũ Đ.
Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số: 148/2023/KLGĐ ngày 28/4/2023 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận Đặng Vũ Đ (bút lục: 25-26):
* Về y học: Trước, trong, sau khi phạm tội và hiện tại: Đương sự có bệnh lý về tâm thần: Chậm phát triển tâm thần nhẹ (F70-ICD10).
* Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Trước đó, ngày 07/12/2022 Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 745/QĐ-XPHC, số tiền: 2.000.000 đồng đối với Đặng Vũ Đ có hành vi “Trộm cắp tài sản” hiện chưa đóng phạt (bút lục: 55-56).
Ngoài ra, quá trình điều tra Đặng Vũ Đ còn khai nhận đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản khác, ở địa bàn huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Ngày 01/6/2023, Đặng Vũ Đ thực hiện hành vi trộm một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng của chị Thân Thị Huyền Trân, đăng ký thường trú: ấp 3, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Căn cứ vào kết luận định giá số 60/KL-HĐ.ĐGTS ngày 27/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản-UBND huyện Vị Thuỷ, tỉnh Hậu Giang, kết luận (bút lục: 40): Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng.
Tổng giá trị tài sản: 2.250.000 đồng (Hai triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).
Vụ thứ hai: Ngày 18/6/2023, Đặng Vũ Đ thực hiện hành vi trộm tiền Việt Nam, với số tiền 150.000 ngàn đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng) của Nguyễn Thị Cẩm X, sinh năm 1985, đăng ký thường trú: ấp 11, xã VT, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Vụ Thứ ba: Ngày 23/7/2023, Đặng Vũ Đ thực hiện hành vi trộm một điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng, một đồng hồ đeo tay màu vàng hiệu VINNER và 150 tờ vé số loại mệnh giá 10.000 đồng của anh Kim Bình, đăng ký thường trú: ấp 8, xã VT, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Căn cứ vào kết luận định giá số 61/KL-HĐ.ĐGTS ngày 27/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản-UBND huyện Vị Thuỷ, tỉnh Hậu Giang, kết luận (bút lục: 44) : Một điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng. Kết luận: 1.250.000 đồng; Một đồng hồ đeo tay màu vàng hiệu VINNER. Kết luận:
200.000 đồng; 150 tờ vé số loại mệnh giá 10.000 đồng mở ngày 24/7/20203 của đài Đồng Tháp và Cà Mau. Kết luận: 1.500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản: 2.950.000 đồng (Hai triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng).
Vụ thứ tư: Ngày 28/7/2023, Đặng Vũ Đ thực hiện hành vi trộm ba mươi nãi chuối xiêm của anh Võ Hoàng Anh, sinh năm: 1968, đăng ký thường trú: ấp 3, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Căn cứ vào kết luận định giá số 54/KL-HĐ.ĐGTS ngày 30/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản-UBND huyện Vị Thuỷ, tỉnh Hậu Giang, kết luận (bút lục: 36): 30 nãi chuối xiêm. Tổng giá trị tài sản: 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng).
Tại cáo trạng số 47/CT-VKS- HVT ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy đã Quyết định truy tố bị cáo Đặng Vũ Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm q,s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Vũ Đ mức hình phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đã xử lý xong.
Về trách nhiệm dân sự. Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
Bị cáo Đặng Vũ Đ tại phiên tòa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để có điều kiện sớm về với gia đình.
Người bào chữa cho bị cáo luật sư Lư Trường T có bản bào chữa: Thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo; Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h,q,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức khởi điểm của mức hình phạt theo đề nghị của kiểm sát viên.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà;
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo; người bào chữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[1.2] Về việc vắng mặt của người bị hại Trần Văn S, Thân Thị Huyền T, Nguyễn Thị Cẩm X, Kim B, Võ Hoàng A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Hồ Tấn H tại phiên tòa: Xét thấy lời khai của các đương sự đã được ghi nhận đầy đủ trong quá trình điều tra, đối với người bị hại cũng đã nhận lại được tài sản bị mất, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, vì vậy việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử của vụ án, Hội đồng xét xử thống nhất căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự xét xử vắng mặt.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng với nội dung bản cáo trạng, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật; các biên bản làm việc, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ, từ đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng từ tháng 4/2023 đến tháng 7/2023 bị cáo Đặng Vũ Đ đã lén lút thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Vị Thủy. Tổng giá trị tài sản là: 5.500.000 đồng. Như vậy hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Từ đó có thể khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.2] Xét về năng lực chịu trách nhiệm hình sự và năng lực nhận thức điều khiển hành vi của bị cáo: Tại kết luận giám định pháp y tâm thần số:
148/2023/KLGĐ ngày 28/4/2023 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận Đặng Vũ Đ (bút lục: 25-26): Về y học: Trước, trong, sau khi phạm tội và hiện tại: Đương sự có bệnh lý về tâm thần: Chậm phát triển tâm thần nhẹ (F70-ICD10); Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra.
[2.3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi cố ý lấy trộm tài sản của người khác là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, nhưng vì bản chất lười lao động, muốn nhanh chóng có tiền phục vụ cho nhu cầu của bản thân mà không phải vất vả lao động làm ra nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân đặc biệt là giai đoạn gần tết Dương lịch 2024. Tội phạm đã hoàn thành nên bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi mà mình đã thực hiện; ngoài ra căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần thì bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm q,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; gia đình bị cáo có người thân có công với cách mạng, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đặng Vũ Đ có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản bị Ủy ban nhân dân thị trấn N xử phạt hành chính theo quyết định số 745/QĐ-XPHC ngày 07/12/2022 hiện vẫn chưa đóng tiền phạt, vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tặng nặng phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015; Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, năm 2017 Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cướp tài sản, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu sửa bản thân mà còn tiếp tục thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Vị Thủy, từ đó cho thấy ý thức xem thường pháp luật của bị cáo, ngay đến chính gia đình bị cáo, cha của bị cáo là ông Đặng Văn Tám cũng có đơn yêu cầu cơ quan chức năng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo với lý do bị cáo đã được gia đình giáo dục nhiều lần nhưng vẫn thường xuyên ăn cắp vặt tại địa phương (BL: 131); Ủy ban nhân dân thị trấn N cũng có kiến nghị 40/KN-UBND đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Đặng Vũ Đ do có hành vi trộm cắp liên tịch tại địa phương (BL 129). Vì vậy cần thiết phải có mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình 6 và xã hội. Do đó, mức hình phạt mà kiểm sát viên đã đề nghị đối với bị cáo là có cơ sở được chấp nhận.
[4] Đối với đề nghị của người bào chữa của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cụ thể phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn để xem xét áp dụng cho bị cáo. Xét thấy các lần bị cáo chiếm đọat tài sản của người bị hại đều đã hoàn thành,việc người bị hại nhận lại được tài sản không phải bị cáo tự nguyện giao trả lại trước khi bị phát hiện mà là sau khi bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện, thu giữ và trả lại cho người bị hại. Vì vậy trường hợp này không được xem là chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn theo đề nghị của người bào chữa.
[5] Xét quan điểm của kiểm sát viên là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị xử phạt từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Xét thấy hiện nay bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử thống nhất miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.
[8] Đối với 01 (một) mô tô biển kiểm soát 95B1-X đã qua sử dụng, chủ sở hữu là của Hồ Tấn H, sinh năm 1974, đăng ký thường trú: ấp 1, thị trấn N, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, không giao cho ai mượn cả chỉ giao cho Đặng Vũ Đ để đi giao nước đá và việc Đ dùng xe mô tô trên đi trộm cắp tài sản thì anh Hải không biết nên trả lại tài sản cho Hồ Thanh H là có căn cứ (bút lục: 08; 154- 155).
[9] Đối với đối tượng tên Giàu qua xác minh không có nhân thân, lý lịch cụ thể nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, chưa xử lý là có căn cứ, khi nào xác minh được xử lý sau. (bút lục: 147) [10] Xử lý vật chứng: Đã xử lý xong nên không xem xét.
[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm q, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Vũ Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Vũ Đ 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/7/2023.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo việc thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.
4. Xử lý vật chứng: Đã xử lý xong nên không xem xét.
5. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.
Bản án 45/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 45/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về