Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy số 234/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 234/2024/HS-ST NGÀY 16/08/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 235/2024/TLST-HS ngày 19/7/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 229/2024/QĐXXST-HS ngày 05/8/2024. Địa điểm mở phiên tòa: Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh. Địa chỉ: đường L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh và Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh.

Vụ án được xét xử trực tuyến công khai tại 02 điểm cầu:

Điểm cầu trung tâm là Hội trường xét xử tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh gồm: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng khác và ông Nguyễn Đình T, cán bộ tin học.

Điểm cầu thành phần là phòng xét xử tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh gồm: Bị cáo Nguyễn Thị T1 và cán bộ tin học của Trại tạm giam.

Đối với bị cáo: Nguyễn Thị T1, sinh năm 1996 ( tên gọi khác: Không).

Nơi đăng ký HKTT: Thôn L, xã B, huyện M, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn P, sinh năm xxx8 và bà Vũ Thị N, sinh năm 1973; Chồng Chu Đức G, sinh năm 1984 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2024 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phòng xét xử).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 02/4/2024, tại phòng trọ số 203 của bà Ngô Thị N1 thuộc khu phố T2, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh, tổ công tác Công an phường Đ kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị T1 (là người thuê phòng trọ 203) có hành vi tàng trữ trái phép 02 túi ma túy nhỏ. N1y sau đó, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố T để giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: Tại túi quần phía trước bên phải của T1 đang mặc 01 túi nilon màu trắng đen cuộn băng dính màu đen, mở ra bên trong có 02 viên nén màu vàng và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong 01 phong bì thư dán kín theo quy định ký hiệu K1.

Khoảng 08 giờ sáng ngày 03/4/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng trọ số 203 của Nguyễn Thị T1 tại khu phố T2, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình khám xét thu giữ:

- Thu giữ trên mặt chiếc tủ lạnh ở góc phòng trọ:

01 đĩa sứ hình tròn màu trắng và 01 ống hút được cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng có bám dính chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu K2.

01 chiếc loa màu đen; 01 điện thoại nhãn hiệu ViVo màu xanh lắp sim số 0983.519.xxx và 01 máy lửa ga màu đỏ; 01 căn cước công dân số 001xxx012397 mang tên Nguyễn Thị T1.

Ngày 03/4/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh giám định chất ma túy đối với số tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu vàng thu giữ của Nguyễn Thị T1.

Tại Bản Kết luận giám định số 938 ngày 05/4/2024 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh; Kết luận:

“- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì thư ký hiệu K1 gửi giám định có khối lượng là 0,8248 gam là ma túy Ketamine;

- 02 viên nén màu vàng bên trong phong bì thư ký hiệu K1 gửi giám định có khối lượng là 0,4842 gam là ma túy MDMA;

- Chất tinh thể màu trắng bám dính trên tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng bên trong phong bì thư ký hiệu K2 gửi giám định có khối lượng là 0,0031 gam là ma túy Ketamine”.

Quá trình điều tra Nguyễn Thị T1 khai nhận: Bị cáo và Nguyễn Văn T3, sinh năm 1987, trú tại thôn Q, xã Y, huyện G, thành phố Hà Nội có mối quan hệ từ năm 2017. Bị cáo hiện đang thuê trọ ở phòng 203 khu nhà trọ của bà Ngô Thị N1, sinh năm 1980 tại khu phố T2, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh.

Ngày 31/3/2024, sau khi cãi nhau với chồng cũ của bị cáo vì lý do không cho bị cáo gặp con nên bị cáo nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Bị cáo dùng điện thoại di động nhãn hiệu ViVo màu xanh lắp sim 0983.519.xxx của bị cáo vào mạng Telegram kết bạn với một nam thanh niên không quen biết để hỏi mua ma túy MDMA và Ketamine để sử dụng, nam thanh niên đồng ý. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, tại khu công nghiệp TS, bị cáo gặp và mua được 01 chỉ ma túy Ketamine và 02 viên ma túy MDMA với giá 2.300.000 đồng. Sau đó, bị cáo mang ma túy vừa mua được về phòng trọ của bị cáo tại T2 để sử dụng một mình. Tại đây, bị cáo đổ một phần ma túy Ketamine ra 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, lấy bật lửa ga hơ nóng đĩa, dùng thẻ căn cước công dân của bị cáo xào ma túy, rồi lấy 01 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng cuộn thành ống hút và hít ma túy Ketamine vào cơ thể qua đường mũi. Sau khi sử dụng ma túy xong, bị cáo để thẻ căn cước công dân, bật lửa và ống hút lên mặt đĩa sứ và để trên mặt bàn trang điểm trong phòng cạnh giường ngủ của bị cáo. Số ma túy còn lại, bị cáo để phía đuôi giường trong phòng trọ để khi nào bản thân có nhu cầu thì sử dụng.

Khoảng 10 giờ ngày 02/4/2024, T3 đến phòng trọ của bị cáo chơi. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T3 nói với bị cáo dạo này T3 đang chán. Bị cáo nói với T3 là “em có ít đồ để ở đuôi giường anh lấy ra mà chơi cho đỡ chán” (ý của bị cáo là “T1 để ma túy ở đuôi giường và bảo T3 lấy sử dụng ma túy cho đỡ chán”). Khoảng 01 giờ sau, khi bị cáo vào nhà vệ sinh tắm thì T3 lại gần chỗ cuối giường ngủ và thấy một túi nilon màu trắng đen được cuốn ngoài là băng dính màu đen. T3 cầm và mở lớp băng dính ra thì thấy bên trong có 02 viên ma túy MDMA màu vàng hình vuông và 01 túi nilon màu trắng chứa chất ma túy Ketamine dạng tinh thể màu trắng. T3 lấy 01 viên ma túy MDMA đưa lên miệng cắn một phần ma túy, rồi lấy cốc nước lọc uống nuốt vào bụng, phần ma túy còn lại T3 để trong túi nilon chứa ma túy MDMA. Sau khi sử dụng ma túy xong, T3 lên giường nằm xem điện thoại. Một lúc sau, T3 thấy 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng để ở bàn trang điểm của bị cáo, trên mặt đĩa có 01 ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 bật lửa ga màu đỏ và 01 căn cước công dân của bị cáo. T3 biết đây là các dụng cụ để sử dụng ma túy Ketamine nên cầm đĩa sứ trên xuống nền phòng. Sau đó, T3 lấy túi nilon chứa ma túy Ketamine ra đổ một phần ra đĩa sứ, dùng bật lửa hàn lại túi nilon, lấy CCCD của bị cáo dầm nhỏ ma túy trên mặt đĩa, chia ma túy làm hai đường rồi dùng ống hút hít hết hai đường ma túy trên đĩa. Sau khi sử dụng ma túy xong, T3 nằm trên giường sử dụng điện thoại. Một lúc sau, bị cáo tắm xong ra ngoài thì thấy T3 nằm trên giường, bị cáo thấy ma túy MDMA và Ketamine đang để ở nền phòng trọ nên cũng lấy ra sử dụng. Bị cáo cầm 01 viên ma túy MDMA đưa lên miệng cắn một miếng nhỏ, rồi uống nước Cocacola nuốt ma túy vào bụng. Một lúc sau, bị cáo lấy túi ma túy Ketamine đổ một phần nhỏ ra đĩa sứ, dùng thẻ CCCD của bị cáo đảo mịn, rồi dùng ống hút cuộn bằng tờ tiền 10.000 đồng trước đó để hít hết ma túy trên đĩa. Thấy mình sử dụng ma túy như vậy đã đủ và biết T3 cũng đã sử dụng ma túy nên bị cáo không sử dụng nữa mà mang đĩa sứ đi rửa sạch rồi cất đĩa sứ và ống hút ở nóc tủ lạnh trong phòng, để chiếc CCCD lên mặt bàn trang điểm. Số ma túy còn lại, bị cáo gói lại và cất vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc để khi nào buồn chán sẽ sử dụng dần. Sau đó, bị cáo lên giường sử dụng điện thoại của bị cáo kết nối với loa mở nhạc sàn và nằm nghe nhạc, nói chuyện với T3. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì lực lượng Công an phường Đ đến kiểm tra thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, bản Cáo trạng số: 153/CT-VKSTS ngày 19/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh để xét xử bị cáo Nguyễn Thị T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại điểm cầu thành phần là Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Nguyễn Thị T1 khai nhận toàn bộ hành vi như đã khai tại cơ quan điều tra là đúng. Bị cáo nhất trí với bản kết luận giám định số ma túy đã thu giữ. Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 255; điểm i khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 từ 28 tháng tù đến 32 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và từ 20 tháng tù đến 23 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là từ 48 tháng tù đến 55 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/4/2024. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 đĩa sứ; 01 sim điện thoại.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 10.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động Vivo màu xanh, 01 loa màu đen.

Trả lại bị cáo Nguyễn Thị T1 01 căn cước công dân.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo đã khai báo và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 02/4/2024, tại phòng trọ số 203 khu nhà trọ của bà Ngô Thị N1, sinh năm 1980 thuộc khu phố T2, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh do Nguyễn Thị T1 đang thuê sử dụng một mình, Công an phường Đ đã kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị T1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,4842 gam ma túy MDMA và 0,8279 gam ma túy Ketamine. T1 khai nhận tàng trữ số ma túy trên với mục đích sử dụng cho bản thân. Trước đó, khoảng 17 giờ ngày 02/4/2024 tại phòng trọ của T1, T1 đã cung cấp ma túy Ketamine và MDMA cùng các công cụ khác phục vụ cho việc sử dụng ma túy để Nguyễn Văn T3 sử dụng. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T1 đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Do vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng phạm vào tội nghiêm trọng quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội. Nhưng khi lượng hình cần xem xét sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị T1 đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông ngoại bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Ngoài hình phạt chính lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung công quỹ Nhà nước nhưng xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, bị cáo tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy không có mục đích lợi nhuận nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 đĩa sứ; 01 bật lửa; sim số 0983.519.xxx không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Số tiền 10.000 đồng; 01 loa màu đen; 01 điện thoại ViVo màu xanh bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy và sử dụng ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Trả lại bị cáo T1 01 CCCD mang tên Nguyễn Thị T1.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị T1 và Nguyễn Văn T3. Ngày 19/6/2024, Công an thành phố T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

Đối với người nam thanh niên không quen biết đã bán ma túy cho T1 ngày 31/3/2024 tại khu công nghiệp Tiên Sơn, do T1 không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể người này ở đâu, không nhớ được cụ thể vị trí mua ma túy. Theo kết quả kiểm tra điện thoại thu giữ của T1 không có nội dung liên quan đến việc mua bán trái phép ma túy. Do vậy, Cơ quan điều tra chưa làm rõ được, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 255; Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2; Điều 51; Điều 55; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136; Điều 329; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 28 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 48 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/4/2024.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 chiếc đĩa sứ; 01 sim số 0983.519.xxx.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 10.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động màu xanh nhãn hiệu ViVo và 01 loa màu đen.

Trả lại cho bị cáo T1 01 CCCD số 001xxx012397 mang tên Nguyễn Thị T1.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy số 234/2024/HS-ST

Số hiệu:234/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;