TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 83/2024/HS-ST NGÀY 28/09/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2024/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:
1. Huỳnh Phú S, sinh ngày 09 tháng 11 năm 1994 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp X, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn C và bà Nguyễn Thị Bích T; có vợ tên Nguyễn Thị Hồng Đ (đã ly hôn) và 01 người con; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2016/HS-ST ngày 13/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 04/3/2024 của Trưởng Công an xã Đ, huyện C, tỉnh Tây Ninh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/3/2024 đến ngày 16/3/2024 chuyển sang tạm giam đến nay; có mặt.
2. Nguyễn Văn S1, sinh ngày 21 tháng 12 năm 2002 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị Đ1; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt, tạm giữ từ ngày 08/3/2024 đến ngày 17/3/2024 chuyển sang tạm giam đến nay; có mặt.
3. Nguyễn Trọng Â, sinh ngày 23 tháng 3 năm 2001 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng S2 và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/12/2023 đến ngày 08/01/2024 chuyển sang tạm giam đến nay; có mặt.
4. Phạm Văn T1, sinh ngày 02 tháng 7 năm 1997 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K và bà Nguyễn Thị L1; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân: Quyết định số 08/QĐ- XPVPHC ngày 18/01/2019 của Trưởng Công an xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Quyết định số 49/QĐ-TA ngày 11/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng; bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/12/2023 đến ngày 08/01/2024 chuyển sang tạm giam đến nay; có mặt.
5. Nguyễn Thị P, sinh ngày 12 tháng 02 năm 1998 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Đạo Cao đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H1 và bà Nguyễn Thị Kim T2; có chồng tên Nguyễn Hoài H2 và 02 người con; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/12/2023 đến ngày 08/01/2024 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; bị bắt, tạm giam từ ngày 31/5/2024 đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Giai đoạn 1: Huỳnh Phú S, Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P là người nghiện ma túy mục đích có ma túy sử dụng và hướng lợi từ việc bán ma túy nên T1, P nhiều lần mua ma túy của S, Â để bán lại cho những người sử dụng ma túy khác, cụ thể:
Ngày 28/12/2023, Phú S đi một mình đến khu vực thị xã H, tỉnh Tây Ninh mua ma túy loại Methamphetamine của người tên P1 (không xác định họ tên, địa chỉ) với số tiền 2.000.000 đồng. Khoảng 21 giờ ngày 28/12/2023, T1 sử dụng điện thoại của P đăng nhập tài khoản Facebook của T1 tên “Sói T3” gọi đến tài khoản Facebook của P2 Sang tên “Sang M” hỏi mua ma túy với số tiền 900.000 đồng. Phú S đồng ý và yêu cầu chuyển tiền trước vào tài khoản. T1 nói P chuyển tiền cho S và P đồng ý. P sử dụng tài khoản của mình số 996815xxx tại Ngân hàng TMCP N5 chuyển đến số tài khoản 997497xxx tại Ngân hàng TMCP N5 của P. Sau khi nhận được tiền, Phú S mang ma túy đến nhà giao cho T1, P.
Khoảng chiều ngày 29/12/2023, T1 sử dụng điện thoại của P đăng nhập tài khoản Facebook gọi điện thoại cho Phú S bằng ứng dụng Messenger Facebook hỏi mua ma túy với số tiền 1.700.000 đồng, Phú S đồng ý và yêu cầu chuyển tiền trước. T1 đưa điện thoại cho P yêu cầu chuyển khoản cho Phú S, P đồng ý và sử dụng tài khoản Ngân hàng số 996815xxx chuyển tiền đến số tài khoản 997497xxx của P. Sau khi nhận được tiền, Phú S và Â mang ma túy đến nhà giao cho T1, P.
Khoảng 22 giờ ngày 29/12/2024,  điều khiển xe mô tô hiệu Honda loại AirBlade biển số 37F1-xxx chở Phú S đến khu vực chùa T5, thị xã H, tỉnh Tây Ninh mua ma túy của người tên P1 với số tiền 3.000.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T1 gọi điện thoại cho Phú S hỏi mua ma túy với số tiền 3.000.000 đồng, Phú S đồng ý và yêu cầu chuyển tiền trước. T1 nói P chuyển khoản cho Phú S, P đồng ý và sử dụng tài khoản Ngân hàng số 996815xxx chuyển tiền đến số tài khoản 997497xxx của P. Phú S và  mua ma túy về đến nhà khoảng 01 giờ sáng ngày 30/12/2023. Sau khi xác nhận đã nhận đủ tiền từ P, Phú S chia ma túy thành 03 phần và đưa cho  01 bịch nylon, 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa ma túy để cất giữ khi nào có người liên hệ mua ma túy, Phú S thông báo cho  đi giao; còn 01 bịch nylon chứa ma túy bên trong gói thuốc lá hiệu Jet để giao cho T1.  cất giấu ma túy của S đưa trong túi áo khoác bên phải, gói thuốc lá điều trong túi quần rồi điều khiển xe mô tô Honda AirBlade biển số 37F1-xxx đến nhà T1. Khi đến nhà T1 thấy cửa rào khóa,  ném gói thuốc lá bên trong có chứa ma túy trước cửa nhà rồi gọi điện qua ứng dụng Messenger Facebook ghi âm lời thoại gửi cho T1 thông báo địa điểm để ma túy. Sau đó  quay về theo đường ĐT795, đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày khi đến khu vực ấp T thì bị Công an xã T tuần tra phát hiện  có biểu hiện nghi vấn nên dừng phương tiện kiểm tra.  ném bịch nylon và đoạn ống nhựa có ma túy của S đưa xuống đường nhưng bị phát hiện.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Văn T1 và Nguyễn Thị P phát hiện bịch nylon có chứa tinh thể rắn màu trắng trong gói thuốc lá hiệu Jet trước nhà và bộ D1 sử dụng bên trong có chứa ma túy. Sau khi mua ma túy của Phú S, T1 chia nhỏ bán cho những người sử dụng ma túy tại nhà của mình, cụ thể:
- Ngày 28/12/2023, Lê Chí M1, sinh năm 1998, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh gọi điện thoại cho T1 qua ứng dụng Messenger Facebook mua ma túy với giá 300.000 đồng và được T1 đồng ý. Sau đó M1 đến nhà T1, T1 đưa ma túy cho M1 và nhận 300.000 đồng. M1 mang ma túy về nhà và sử dụng một mình hết số ma túy.
- Ngày 29/12/2023, Lê Trung K1, sinh năm 1999, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh sử dụng tài khoản Facebook tên “Trung Kiệt” gọi điện thoại cho T1 qua ứng dụng Messenger mua ma túy với giá 1.000.000 đồng. T1 đồng ý và yêu cầu K1 chuyển tiền đến số tài khoản 996815xxx của P. Sau đó K1 đến nhà T1, T1 đưa cho P 01 bịch nylon bên trong có chứa ma túy, P trực tiếp giao cho K1. K1 mang ma túy về nhà và sử dụng một mình hết số ma túy.
Ngoài ra Phạm Văn T1 khai nhận ngày 29/12/2023 bán cho người tên Nguyễn Thành D, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh 01 bịch ma túy với số tiền 400.000 đồng; bán cho người tên “Minh Nam” (không xác định được họ tên), địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh 01 bịch ma túy với số tiền 1.000.000 đồng. Xác minh tại xã T không xác định người tên Nguyễn Thành D, Minh Nam ở địa phương có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy.
Giai đoạn 2: Huỳnh Phú S biết Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P bị phát hiện nên bỏ trốn khỏi địa phương. Trong thời gian này Phú S đến khu vực nghĩa địa thuộc xã B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh gặp người tên N1 (không xác định họ tên, địa chỉ) mua ma túy 03 lần để sử dụng và chia nhỏ bán trái phép cho người khác 03 lần. Lần cuối ngày 06/3/2024, Phú S mua ma túy của N1 với số tiền 4.000.000 đồng. Khoảng cuối tháng 02/2024, Phú S đến nhà của Nguyễn Văn S1 tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh sinh sống. Tại đây, Phú S mua ma túy loại Methamphetamine và cùng Văn S1 bán trái phép cho người khác, cụ thể:
- Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 29/02/2024, Nguyễn Văn G, sinh năm 2004, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh là em ruột của Văn S1 gọi điện thoại cho Văn S1 để mua ma túy. Phú S đưa cho Văn S1 01 bịch ma túy, Văn S1 đến khu vực trạm y tế xã T giao cho G và nhận số tiền 200.000 đồng sau đó mang về đưa lại cho Phú S.
- Ngày 04/3/2024, Hồ Văn B, sinh năm 1998, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh sử dụng tài khoản Zalo gọi đến tài khoản Zalo của P2 Sang tên “Đơn Độc” hỏi mua ma túy. Phú S hẹn B đến nhà Văn S1 để giao ma túy, tại đây Phú S bán cho B 01 bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng.
- Ngày 06/3/2024, B đến gặp Phú S để mua ma túy, Phú S đưa cho Văn S1 01 bịch ma túy, Văn S1 trực tiếp giao cho B và nhận số tiền 200.000 đồng rồi đưa lại cho Phú S. B mang ma túy đến rẫy cao su vắng người sử dụng một mình hết số ma túy.
- Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/3/2024, Nguyễn Thanh T4, sinh năm 1995, địa chỉ: Ấp S, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh sử dụng số điện thoại 0876263732 gọi đến số điện thoại 097497xxx của Phú S để mua ma túy, Phú S đồng ý và hẹn đến nhà của Văn S1. Tại đây Phú S đưa cho Văn S1 01 bịch ma túy, Văn S1 trực tiếp giao cho T4 và nhận số tiền 200.000 đồng rồi đưa lại cho Phú S. Sau đó T4 đã sử dụng một mình hết số ma túy.
- Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/3/2024, T4 tiếp tục đến nhà Văn S1 để mua ma túy, Phú S bán cho T4 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng thì bị Công an huyện T phối hợp với Công an xã T bắt quả tang.
- Ngoài ra Huỳnh Phú S, Nguyễn Văn S1 khai nhận ngày 06/3/2024, bán ma túy cho người tên S1, địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh với số tiền 300.000 đồng; người tên Đ2, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh với số tiền 300.000 đồng và một số người khác. Phú S đưa cho Văn S1 01 bịch ma túy giao cho S1, Đ2. Sau khi bán ma túy xong, Văn S1 đưa tiền lại cho Phú S. Xác minh tại xã T không người tên S1, Đ2 không có mặt ở địa phương.
Tại cơ quan điều tra, Huỳnh Phú S, Nguyễn Văn S1, Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra Phú S và Văn S1 khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/3/2024, tại chòi phía sau nhà của Nguyễn Văn S1, Phú S lấy bịch ma túy bỏ vào bộ dụng cụ và dùng hộp quẹt nấu ma túy để sử dụng rồi đưa cho Văn S1, Nguyễn Thị N2, sinh năm 2000, địa chỉ: Ấp B, xã P, thị xã T, tỉnh Tây Ninh (là bạn gái của Phú S) sử dụng. Lúc này Nguyễn Văn G đang ở phía trước nhà, Văn S1 gọi G vào cùng tham gia sử dụng ma túy. Đến khoảng 16 giờ 00 phút, Công an huyện T phối hợp với Công an xã T bắt quả tang Phú S bán trái phép chất ma túy cho T4 phát hiện G, Văn S1 đang sử dụng ma túy.
- Kết luận giám định số 2098/KL-KTHS ngày 05/01/2024 của phòng K3 Công an tỉnh T kết luận:
Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M1) bên trong 01 (một) bịch nylon bóp miệng có viền màu đỏ và 01 (một) đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 2,4977 (hai phẩy bốn chín bảy bảy) gam. Sau giám định đối tượng M1 còn lại 2,4018 (hai phẩy bốn không một tám) gam.
Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M2) bên trong 01 (một) bịch nylon bóp miệng có viền màu đỏ gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 4,9082 (bốn phẩy chín không tám hai) gam. Sau giám định đối tượng M2 còn lại 4,7775 (bốn phẩy bảy bảy năm) gam.
Dụng cụ sử dụng ma túy được niêm phong trong bì thư (kí hiệu M3) gửi đến giám định có chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,1380 (không phẩy một ba tám không) gam. Sau giám định đối tượng M3 còn lại 0,1087 gam (không phẩy một không tám bảy) gam.
- Kết luận giám định số 470/KL-KTHS ngày 13/3/2024 của phòng K3 - Công an tỉnh T kết luận:
Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M1) bên trong 01 (một) đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,0384 (không phẩy không ba tám bốn) gam; đã sử dụng hết trong công tác giám định. Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M2) bên trong 03 (ba) bịch nylon bóp miệng có viền màu đỏ gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 6,4260 (sáu phẩy bốn hai sáu không) gam. Sau giám định đối tượng M2 còn lại 6,3691 gam (sáu phẩy ba sáu chín một) gam.
Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M3) bên trong 01 (một) đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,1431 (không phẩy một bốn ba một) gam. Sau giám định đối tượng M3 còn lại 0,1028 gam (không phẩy một không hai tám) gam.
Dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 (một) ống thủy tinh, 01 (một) đoạn ống nhựa được cắm vào nắp chai nhựa có nắp màu đỏ (kí hiệu M4) gửi đến giám định có tìm thấy chất ma túy loại Methamphetamine không xác định được khối lượng vì mẫu dạng vết.
- Kết luận giám định số 471/KL-KTHS ngày 14/3/2024 của phòng K3 - Công an tỉnh T kết luận: Số tiền 600.000 (Sáu trăm nghìn) Việt Nam đồng gồm 01 (một) tờ tiền Việt Nam đồng (loại polymer) mệnh giá 200.000 đồng số seri JU 11795288; 02 (hai) tờ tiền Việt Nam đồng (loại polymer) mệnh giá 100.000 đồng số seri EO 17312613, NC 16766729; 04 (bốn) tờ tiền Việt Nam đồng (loại polymer) mệnh giá 50.000 số seri SQ 17573257, CP 16106817, HE 23259043, EE 23938284 cần giám định là tiền thật.
Cáo trạng số 68/CT-VKSTB ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên truy tố bị cáo Huỳnh Phú S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, c, q khoản 2 Điều 251 và các điểm b, h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Văn S1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Trọng  về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự;
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Phú S, Nguyễn Văn S1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”:
- Căn cứ các điểm b, h khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Phú S từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Căn cứ các điểm b, c, i, q khoản 2 Điều 251, các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Phú S từ 09 (chín) năm tù đến 10 (mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S1 từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S1 từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt theo quy định đối với các bị cáo.
- Căn cứ các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251, các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng  từ 08 (tám) năm tù đến 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ các điểm b, i khoản 2 Điều 251, các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ các điểm b, i khoản 2 Điều 251, các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Căn cứ các điều 47, 48 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Phú S, Văn S1, Â, T1, P thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên đã truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo Phú S,Văn S1, Â, T1, P nói lời sau cùng: Trong thời gian bị tạm giữ, các bị cáo biết hành vi của mình là sai và ăn năn hối lỗi. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến và không khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện:
[2.1] Huỳnh Phú S đã tái phạm, chưa được xóa án tích nhưng từ ngày 28 30/12/2023, tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, Phú S, Nguyễn Trọng  thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine cho Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P, cụ thể: Ngày 28/12/2023 Phú S bán ma túy cho T1, P 01 lần số tiền 900.000 đồng; ngày 29/12/2023 Phú S,  bán ma túy cho T1, P 02 lần số tiền 1.700.000 đồng và 3.000.000 đồng. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 30/12/2023,  điều khiển xe mô tô Honda Air Blade biển số 37F1-xxx giao 4,9082 gam ma túy cho T1, P và trên đường về thì bị Công an xã T kiểm tra phát hiện, thu giữ trên người  khối lượng 2,4977 gam ma túy. Quá trình điều tra Phú S,  khai nhận số ma túy trên cất giữ nhằm mục đích bán trái phép cho người khác. Tổng khối lượng ma túy Phú S,  mua bán trái phép là 7,4059 gam.
- Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T1, P thu giữ 01 bịch ma túy mua của P, Â khối lượng 4,9082 gam và 0,1380 gam ma túy T1 cất giữ trong bộ dụng cụ sử dụng. T1, P khai nhận số ma túy trên cất giữ nhằm mục đích bán trái phép cho người khác. Tổng khối lượng ma túy T1, P mua bán trái phép là 5,0462 gam. Quá trình điều tra xác định tại nơi ở của mình T1, P thực hiện hành vi bán trái phép ma túy cho người khác, cụ thể: Ngày 28/12/2023, T1 bán ma túy cho Lê Chí M1 01 lần với số tiền 300.000 đồng; ngày 29/12/2023, T1 và P bán ma túy Lê Trung K1 01 lần với số tiền 1.000.000 đồng.
- Huỳnh Phú S biết Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P bị phát hiện nên bỏ trốn khỏi địa phương. Khoảng cuối tháng 02/2024, Phú S đến nhà của Nguyễn Văn S1 tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh sinh sống. Tại đây, Phú S mua ma túy loại Methamphetamine và cùng Văn S1 bán trái phép cho người khác, cụ thể: Ngày 04/3/2024, Phú S bán ma túy cho Hồ Văn B 01 lần với số tiền 200.000 đồng; ngày 06/3/2024, Phú S và Văn S1 bán ma túy cho B 01 lần với số tiền 200.000 đồng; ngày 07/3/2024, Phú S và Văn S1 bán ma túy cho Nguyễn Thanh T4 01 lần với số tiền 200.000 đồng. Đến 16 giờ 00 phút ngày 07/3/2024, Phú S bán cho T4 0,0384 gam ma túy với số tiền 200.000 đồng thì bị Công an xã T bắt quả tang. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phú S, Văn S1 thu giữ trong cốp xe, trên giường ngủ của Phú S 6,4260 gam và 0,1431 gam ma túy. Phú S khai nhận số ma túy trên cất giữ nhằm mục đích bán trái phép cho người khác. Tổng khối lượng ma túy Phú S mua bán trái phép là 6,6075 gam.
Hành vi của Huỳnh Phú S, Nguyễn Văn S1, Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo T1, P phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; bị cáo  phạm tội thuộc trường hợp quy định tại các điểm c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Phú S phạm tội thuộc trường hợp quy định tại các điểm c, i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
[2.2] Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/3/2024, tại nhà của Nguyễn Văn S1, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, Huỳnh Phú S có hành vi cung cấp ma túy, bộ dụng cụ sử dụng, Nguyễn Văn S1 cung cấp địa điểm và cùng thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy với Nguyễn Văn G, Nguyễn Thị N2. Hành vi của bị cáo Phú S, Văn S1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và thuộc trường hợp phạm tội “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phú S đã tái phạm, chưa được xóa án tích nhưng lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng số 68/CT-VKSTB ngày 14/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên truy tố các bị cáo là có căn cứ.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, an ninh chính trị tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển con người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo là người đã thành niên, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình nhưng vì mục đích thu lợi bất hợp pháp, ham muốn của bản thân nên đã thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý. Vì vậy cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm.
Tính chất của đồng phạm, mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm: Hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ, phân công vai trò, sắp đặt nhiệm vụ rõ ràng giữa những người tham gia.
Hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: Các bị cáo có vai trò như nhau khi thực hiện tội phạm, bị cáo Phú S cung cấp ma túy, chuẩn bị dụng cụ sử dụng, bị cáo Văn S1 sử dụng nhà ở của mình làm địa điểm sử dụng trái phép chất ma túy nên phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi của mình.
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy: Bị cáo Phú S, T1 giữ vai trò chính, là người chuẩn bị tiền mua ma túy, trực tiếp thực hiện và hướng lợi từ việc bán trái phép chất ma túy. Bị cáo Â, Văn S1 người giúp sức cho Phú S giao ma túy cho các đối tượng nghiện và hướng lợi sử dụng ma túy miễn phí; bị cáo P giúp sức cho bị cáo T1 thực hiện chuyển khoản giao dịch mua bán trái phép chất ma túy. Hội đồng xét xử phạt bị cáo Phú S, T1 mức hình phạt cao hơn bị cáo Â, Văn S1, P.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo đầy đủ, đúng sự thật những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện và tự nguyện khai báo về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm, người phạm tội bị phát hiện. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
[6] Nhân thân: Bị cáo Â, T1 có nhân thân xấu, bị kết án, xử lý vi phạm hành chính đã được xóa án tích, hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nhưng bị cáo không sửa chữa những sai phạm của mình thể hiện ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
[7] Hình phạt áp dụng:
[7.1] Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy các hình phạt khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Căn cứ Điều 38 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm.
[7.2] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản, không có chức vụ, nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[8] Biện pháp tư pháp: Căn cứ các điều 47, 48 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- 02 cân tiểu ly, 02 hột quẹt, 02 cây kéo, 04 sim điện thoại, 06 bì thư bên trong chứa chất ma túy và bộ D1 sử dụng ma túy là vật chứng trong vụ án, công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng và chất thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
- Tiền Việt Nam 600.000 đồng của bị cáo Phú S bán trái phép chất ma túy cho người khác; 04 điện thoại di động là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy; Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
[9] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị P, Lê Trung K1, Lê Chí M1, Phạm Văn T1, Nguyễn Trọng Â, Nguyễn Thị N2, Huỳnh Phú S, Hồ Văn B, Nguyễn Thanh T4, Nguyễn Văn S1, Nguyễn Văn G; Trưởng Công an xã T và Trưởng Công an xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.
Người tên P1, K2 bán ma túy cho Huỳnh Phú S; người tên Nguyễn Thành D, Minh Nam mua ma túy của Phạm Văn T1, người tên S1, Đ2 mua ma túy của Phú S, Văn S1 không xác định được nhân thân, lý lịch; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T chưa tiến hành làm việc được, khi xác minh làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.
Nguyễn Thị N2 không biết và không tham gia tổ chức sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy với Huỳnh Phú S; bà Lê Thị Đ1 là mẹ của Nguyễn Văn S1 không biết việc Văn S1, Phú S tổ chức sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy tại nhà của mình; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không xử lý là có căn cứ.
[10] Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các bị cáo Phú S, Văn S1, Â, T1, P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Phú S, Nguyễn Văn S1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy”; tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
1.1. Căn cứ vào các điểm b, h khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Huỳnh Phú S 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ vào các điểm b, c, i, q khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Huỳnh Phú S 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt bị cáo Huỳnh Phú S phải chấp hành hình phạt chung về các tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy” là 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 07/3/2024.
1.2. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S1 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S1 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt bị cáo Nguyễn Văn S1 phải chấp hành hình phạt chung về các tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy” là 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 08/3/2024.
1.3. Căn cứ vào các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng  08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 30/12/2023.
1.4. Căn cứ vào các điểm b, i khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 30/12/2023.
1.5. Căn cứ vào các điểm b, i khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 31/5/2024 khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/12/2023 đến ngày 08/01/2024.
2. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) cân tiểu ly; 02 (hai) hột quẹt ga; 02 (hai) cây kéo bằng kim loại; 01 (một) sim số 097497xxx của bị cáo Phú S; 01 (một) sim số 0961490775 của bị cáo Văn S1; 01 (một) sim số 0865926160 của bị cáo Â; 01 (một) sim số 0368638809 của bị cáo P.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong số 2098/M1 bên trong chứa 2,4018 (hai phẩy bốn không một tám) gam ma túy loại Methamphetamine được hoàn lại sau giám định; 01 (một) bì thư niêm phong ghi số 2098/M2 bên trong chứa 4,7775 (bốn phẩy bảy bảy năm) gam ma túy loại Methamphetamine được hoàn lại sau giám định; 01 (một) bì thư niêm phong ghi số 2098/M3 bên trong là bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy có chứa 0,1087 (không phẩy một không tám bảy) gam ma túy loại Methamphetamine được hoàn lại sau giám định có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N3, trợ lý giám định Nguyễn Văn Q;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong ghi số 470/gói 2 bên trong chứa 6,3691 (sáu phẩy ba sáu chín một) gam ma túy loại Methamphetamine được hoàn lại sau giám định; 01 (một) bì thư niêm phong ghi số 470/gói 3 bên trong chứa 0,1028 (không phẩy một không hai tám) gam ma túy loại Methamphetamine được hoàn lại sau giám định; 01 (một) bì thư niêm phong ghi số 470/gói 4 bên trong chứa 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 (một) ống thủy tinh, 01 (một) đoạn ống nhựa được cắm vào nắp chai nhựa có nắp màu đỏ được hoàn lại sau giám định có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết M3 và trợ lý giám định Lê Nhựt N4;
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước tiền Việt Nam 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng trong bì thư niêm phong (Kèm theo Kết luận giám định số 471/KL-KTHS ngày 14/3/2024 của Phòng K3 Công an tỉnh T tình trạng niêm phong nguyên vẹn); 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo số Imei 867609031295330 đã qua sử dụng của bị cáo Phú S; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo số Imei 86142805519563 đã qua sử dụng của bị cáo Văn S1; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo số Imei 862251053576431 đã qua sử dụng của bị cáo Â; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung số Imei 354564113571289 đã qua sử dụng của bị cáo P.
(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T và có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2024)
3. Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Huỳnh Phú S, Nguyễn Văn S1, Nguyễn Trọng Â, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 83/2024/HS-ST
Số hiệu: | 83/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về