TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 72/2024/HS-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2024/HS-ST ngày 22/02/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2024/QĐXXST-HS ngày 14/3/2024, đối với các bị cáo:
1. Hà Thị Mai K - sinh năm 1973; Tên gọi khác: không; Giới tính: nữ; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 744 – H13, phường T, quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hà Huy H (đã chết) và bà Hoàng Thị Tchết); có 03 con (con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2005); Tiền án, tiền sự: Năm 1992 và năm 1994, bị xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 25/5/1993, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù tội trộm cắp tài sản của công dân (đã được xóa án tích); Ngày 20/12/1996, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù tội Trộm cắp tài sản của công dân (đã được xóa án tích); Ngày 14/7/1998, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù tội Trộm cắp tài sản của công dân (đã được xóa án tích); Ngày 12/7/2000, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù tội Trộm cắp tài sản của công dân (chưa được xóa án tích do chưa nộp tiền án phí); Ngày 29/4/2002, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); Ngày 31/7/2006, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 48 tháng tù tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); Ngày 31/7/2006, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); Ngày 21/11/2013, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); Ngày 13/02/2015, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xử phạt 20 tháng tù tội Trộm cắp tài sản tổng hợp hình phạt với bản án ngày 21/11/2013 buộc Hà Thị Mai K phải chấp hành hình phạt 56 tháng tù (chấp hành xong án phạt tù ngày 27/3/2019, đã được xóa án tích); Danh chỉ bản số: 684, lập ngày 10/10/2023 tại Công an quận Đống Đa; bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/9/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên toà).
2. Vũ Thành T - sinh năm 1972; Tên gọi khác: Vũ Đức T, Vũ Văn T; Giới tính: nam; Đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm 15, xã Đ, huyện N, tỉnh Nam Định; nơi ở: số 4 ngõ 136 phố T, phường Q, quận Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Nhật H (đã chết) và bà Vũ Thị H (đã chết); vợ Nguyễn Thị Lan A (đã ly hôn); có 02 con (con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2005); Tiền án, tiền sự: Ngày 22/4/2009, Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 năm tù tội Vận chuyển tiền giả (chấp hành xong án phạt tù ngày 29/8/2010, chưa được xóa án tích); Ngày 09/01/2014, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 48 tháng tù tội Cướp giật tài sản (chấp hành xong án phạt tù ngày 28/02/2017, chưa được xóa án tích do chưa thi hành khoản bồi thường 10.000.000 đồng); Ngày 18/02/2020, Tòa án nhân dân quận T Xuân, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù tội Đánh bạc (chấp hành xong án phạt tù ngày 26/01/2022, chưa được xóa án tích); Danh chỉ bản số 683, lập ngày 10/10/2023 tại Công an quận Đống Đa; bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/9/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 28/9/2023, tổ công tác Công an phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội đã tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà số 4/136 phố T, Hà Nội. Quá trình kiểm tra phát hiện trong nhà có 04 đối tượng gồm: Vũ Thành T, Hà Thị Mai K, Nguyễn Thị T1 (sinh năm: 1972; hộ khẩu: số 22 ngõ 403, quận H, Hà Nội) và Nguyễn Văn H (sinh năm: 1964; hộ khẩu: Số 88 tổ 27 Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), tại chỗ các đối tượng khai nhận Vũ Thành T, Hà Thị Mai K và Nguyễn Thị T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan công an đã phát hiện và thu giữ trên gác xép trong phòng: 01 thẻ nhựa màu đen kích thước 10x7cm có dính chất bột màu trắng, 01 bật lửa hình trụ kích thước 7x1cm; 01 đĩa sứ màu trắng hình bầu dục có dính chất bột màu trắng; thu giữ tại bàn uống nước 01 loa nghe nhạc màu xanh kích thước 22x5x5(cm); thu giữ của Hà Thị Mai K 01 túi xách màu đen và 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A17 màu xanh; thu giữ của Vũ Thành T 01 điện thoại nhãn hiệu Itel Alpha lite W5008.
Bản Kết luận giám định số 6653/KL-KTHS ngày 06/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:
- 01 thẻ nhựa cứng màu đen và 01 đĩa sứ trắng hình bầu dục đều có dính ma túy loại Ketamine.
Tại Cơ quan điều tra, Hà Thị Mai K và Vũ Thành T đã khai nhận hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của mình, K và T khai: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 28/9/2023, K và T1 cùng nhau đi đến nhà T tại số 4/136 Tây Sơn, Quang Trung, Đống Đa, Hà Nội để ăn rằm trung thu, trong nhà Vũ Thành T còn có Nguyễn Văn H đang nằm ngủ trên gác xép. Lúc này, K bảo có ít ma túy “Ke” và rủ mọi người cùng sử dụng thì T, T đồng ý. Sau đó K hỏi mượn T dụng cụ để sử dụng ma túy thì T có đưa cho K 01 đĩa sứ màu trắng hình bầu dục, 01 bật lửa và 01 thẻ nhựa cứng màu đen. K lấy trong túi xách ra 01 gói giấy đựng ma túy “Ke” đổ lên đĩa rồi dùng bật lửa hơ lên đĩa để xào “Ke” thành 03 đường. K lấy ống hút trong cốc nước mía đã mua từ trước ra và hít bằng mũi một đường “Ke” rồi đưa cho T và T lần lượt sử dụng hết số ma túy còn lại. Sau khi sử dụng xong T mang đĩa sứ xuống để ở chậu rửa mặt trong nhà vệ sinh và vứt ống hút, vỏ giấy đựng ma túy ra ngoài cửa. T dùng loa của mình bật nhạc để mọi người cùng nghe. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì các đối tượng bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ tang vật như đã nêu trên.
Về nguồn gốc số ma túy, Hà Thị Mai K khai mua của một người phụ nữ tại khu vực phố Hàng Tre, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội với giá 1.000.000 đồng vào ngày 26/9/2023. Sau khi mua được ma túy, K đã sử dụng một ít, số còn lại đã mang ra để cùng T và T sử dụng nốt thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.
Đối với Nguyễn Thị T1, qua điều tra xác định không đóng góp hay giúp sức Hà Thị Mai K và Vũ Thành T trong hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, T đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan công an đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T1.
Đối với Nguyễn Văn H, qua điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của Hà Thị Mai K và Vũ Thành T nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý.
Đối với đối tượng bán ma túy cho Hà Thị Mai K, do K khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.
Bản cáo trạng số 41/CT-VKSĐĐ ngày 20/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã truy tố: bị cáo Hà Thị Mai K về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; bị cáo Vũ Thành T về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b, h khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Hà Thị Mai K, Vũ Thành T về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Hà Thị Mai K từ 07 năm đến 08 năm tù về tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- điểm b, h khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Vũ Thành T từ 08 năm đến 09 năm tù về tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
+ 01 (một) phong bì niêm phong dán kín, trên các mép dán có chữ ký của Vũ Thành T, Hà Thị Mai K, người chứng kiến Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn H, cán bộ công an phường Nguyễn Thanh Bình, giám định viên Phạm Trần Nam cùng hình dấu của công an phường Quang Trung.
+ 01 bật lửa.
+ 01 túi xách màu đen.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) loa nghe nhạc màu xanh. Trả lại 02 điện thoại đã thu giữ của các bị cáo.
Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai người làm chứng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu được trong vụ án. Các bị cáo Hà Thị Mai K, Vũ Thành T có hành vi tổ chức cho nhau và tổ chức cho Nguyễn Thị T sử dụng trái phép chất ma tuý thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ dụng cụ sử dụng ma tuý. Hành vi nêu trên của các bị cáo Hà Thị Mai K, Vũ Thành T đã phạm vào tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo Vũ Thành T có 03 tiền án chưa được xoá án tích. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố bị cáo Hà Thị Mai K theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và bị cáo Vũ Thành T theo quy định tại điểm b, h khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3]. Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Vai trò của các bị cáo như sau: bị cáo K là người khởi xướng, rủ rê và cung cấp ma tuý. Bị cáo T đồng ý cho mọi người sử dụng ma tuý tại nhà trọ của mình đồng thời cung cấp dụng cụ để sử dụng ma tuý. Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về sử dụng các chất ma tuý, làm suy giảm sức khoẻ của con người và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo nhận biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo hình phạt tù có thời hạn rất nghiêm khắc mới bảo đảm tác dụng cải tạo giáo dục và răn đe phòng ngừa chung. Xét nhân thân của các bị cáo đều có nhiều tiền án, trong đó bị cáo K có 01 tiền án chưa được xoá án tích, bị cáo T có 03 tiền án chưa được xoá án tích.
Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét các bị cáo không có khả năng thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:
Vật chứng của vụ án mà các bị cáo đã dùng để tổ chức sử dụng ma tuý và vật chứng không còn giá trị sử dụng (bật lửa và túi xách màu đen) cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 loa màu xanh xét có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với 02 điện thoại di động thu giữ của các bị cáo xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại tài sản cho các bị cáo.
Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Hà Thị Mai K, Vũ Thành T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: - điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Thị Mai K;
- điểm b, h khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Thành T;
Xử p hạ t :
- Hà Thị Mai K 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 28/9/2023.
- Vũ Thành T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 28/9/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Áp dụng - Điều 46, 47 Bộ luật hình sự.
- Các Điều 106, 136; 298; 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
+ 01 (một) phong bì niêm phong dán kín, trên các mép dán có chữ ký của Vũ Thành T, Hà Thị Mai K, người chứng kiến Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn Hiền, cán bộ công an phường Nguyễn T Bình, giám định viên Phạm Trần Nam cùng hình dấu của công an phường Quang Trung.
+ 01 bật lửa.
+ 01 túi xách màu đen.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) loa nghe nhạc màu xanh.
Trả lại bị cáo Hà Thị Mai K 01 điện thoại Oppo A17 màu xanh (không kiểm tra chất lượng và nội dung bên trong).
Trả lại bị cáo Vũ Thành T 01 điện thoại Itel màu đồng (không kiểm tra chất lượng và nội dung bên trong).
(Tình trạng như Biên bản giao, nhận vật chứng số 121 ngày 26/02/2024 lập tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa, thành phố Hà Nội).
Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.
Bản án 72/2024/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 72/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về