TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 08/08/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2022/HSST-QĐ ngày 02 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Đàm Văn H, sinh ngày 17 tháng 4 năm 1987 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đàm Văn B (đã chết) và con bà Trần Thị N, sinh năm 1957; Có vợ là chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1993 và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị tạm giữ từ ngày 03/01/2022, đến ngày 12/01/2022 chuyển tạm giam; có mặt.
2. Lương Bình D, sinh ngày 10 tháng 7 năm 1985 tại tỉnh Thanh Hoá; Nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Khắc S, sinh năm 1955 và con bà Đoàn Thiên H, sinh năm 1962; Có vợ là chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990 và có 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 97/2013/HSST ngày 17/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản, phải bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/12/2013, đã thi hành xong án phí hình sự và dân sự sơ thẩm năm 2013, xác minh thi hành án dân sự đến thời điểm hiện tại không nhận được đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành; Bị tạm giữ từ ngày 03/01/2022, đến ngày 12/01/2022 chuyển tạm giam; có mặt.
3. Nguyễn Thành T, sinh ngày 09 tháng 02 năm 2002 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trịnh N, sinh năm 1976 và con bà Lê Thị V, sinh năm 1978; Chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị tạm giữ từ ngày 03/01/2022, đến ngày 12/01/2022 chuyển tạm giam, ngày 25/7/2022 cho Bảo lĩnh; Chết ngày 26/7/2022 theo Trích lục khai tử số 171/TLKT-BS ngày 26/7/2022 của Uỷ ban nhân dân xã Lâm Động, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng.
4. Đàm Nhật T, sinh ngày 22 tháng 10 năm 1982 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đàm Xuân L, sinh năm 1956 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1958; Có vợ là chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1983 và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị tạm giữ từ ngày 03/01/2022, đến ngày 12/01/2022 chuyển tạm giam; có mặt.
5. Cao Văn L, sinh ngày 26 tháng 7 năm 1983 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Văn H, sinh năm 1961 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962; Có vợ là chị Đàm Thị Ngát, sinh năm 1984 và có 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị tạm giữ từ ngày 03/01/2022, đến ngày 12/01/2022 chuyển tạm giam; có mặt.
6. Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 05 tháng 8 năm 1988 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Huy D, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; Chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị tạm giữ từ ngày 03/01/2022, đến ngày 12/01/2022 chuyển tạm giam; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Trịnh D, sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 02/01/2022, trong khi ngồi ăn uống tại quán gà Mạnh Hoạch thuộc thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng, Đàm Văn H rủ Lương Bình D, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C ăn xong sẽ cùng đi hát, thuê nhân viên phục vụ và mua ma túy để cả nhóm sử dụng và cho nhân viên cùng sử dụng. Đàm Văn H bảo Lương Bình D bỏ tiền ra trước để mua 04 viên ma túy thuốc lắc và 02 gam ma túy Ketamine, Cao Văn L bỏ tiền ra trước để thanh toán tiền thuê phòng hát và tiền nhân viên phục vụ. Sau này chi phí sẽ chia đều cho Đàm Văn H, Lương Bình D, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C để trả lại cho Lương Bình D và Cao Văn L. Cả nhóm đồng ý. Lương Bình D gọi điện cho Nguyễn Thành T nhờ mua hộ 04 viên ma túy thuốc lắc với giá 300.000 đồng/viên và 02 gam ma túy Ketamine với giá 1.300.000 đồng/gam, Nguyễn Thành T đồng ý. Đàm Văn H gọi điện cho Đào Văn C, sinh năm 1983 ở thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng, là nhân viên quản lý quán karaoke Diamond thuộc thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng để đặt phòng hát. Sau đó cả nhóm đi xe taxi đến quán, trên đường đi Đàm Văn H bảo Lương Bình D mua thêm 02 viên thuốc lắc để cho nhân viên phục vụ cùng sử dụng. Lương Bình D gọi cho Nguyễn Thành T để nhờ mua thêm 02 viên thuốc lắc và bảo Nguyễn Thành T mang đến quán hát rồi vào sử dụng ma túy cùng cả nhóm. Nguyễn Thành T đồng ý và sang đường tàu nội thành Hải Phòng mua của 01 người đàn ông không quen biết 06 viên ma túy thuốc lắc và 02 gam ma túy Ketamine hết số tiền 4.400.000 đồng. Khi đến quán karaoke Diamond, Đàm Văn H gặp Đào Văn C lấy phòng hát và thuê 04 nhân viên nữ phục vụ. Đào Văn C dẫn cả nhóm đi lên phòng hát số 01 ở tầng 02 và gọi các nhân viên Lò Thị S, sinh ngày 24/7/2004, địa chỉ B, xã M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, Nguyễn Thị Kiều O, sinh năm 1993, địa chỉ thôn 4, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định, Nguyễn Thị Xuân C, sinh năm 2002, địa chỉ thôn 6, xã P, huyện Y, tỉnh Yên Bái, Vi Cẩm N, sinh ngày 28/01/2006, địa chỉ thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An vào phục vụ. Khi Nguyễn Thành T mang ma túy đến thì Lương Bình D xuống đón và dẫn Nguyễn Thành T lên phòng hát, sau đó Nguyễn Thành T xuống gian bếp của quán lấy 01 đĩa sứ mang vào phòng hát. Trong khi ngồi hát Đàm Nhật T nhắn tin cho Nguyễn Trịnh D rủ Nguyễn Trịnh D đến quán hát sử dụng ma túy. Khi Nguyễn Trịnh D đến được Đàm Nhật T đón dẫn lên phòng hát số 01, tại đây Đàm Nhật T hỏi Nguyễn Trịnh D “Có tiền không cho tôi xin 10.000 đồng”. Nguyễn Trịnh D lấy tờ 10.000 đồng đưa cho Đàm Nhật T. Đàm Nhật T dùng tờ tiền và 04 vỏ đầu lọc cố định cuốn thành tẩu để trên bàn. Sau đó Nguyễn Thành T nói với mọi người trong phòng “Có mấy viên thuốc lắc, nghiền ra mỗi người một ít”. Nguyễn Thành T cầm 01 cốc thủy tinh, 01 lon Cocacola, 01 vỏ chai bia Tiger cùng Lương Bình D đi vào nhà vệ sinh của phòng hát. Tại đây Nguyễn Thành T lấy 06 viên ma túy thuốc lắc đưa cho Lương Bình D 01 viên, Lương Bình D cầm sử dụng luôn rồi đi ra ngoài.
05 viên ma túy còn lại Nguyễn Thành T dùng vỏ chai bia nghiền ra đổ vào cốc pha với nước Cocacola rồi mang ra phòng hát đưa cho Đàm Văn H, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Trịnh D và Nguyễn Thành T cùng sử dụng. Khoảng 15 phút sau, Nguyễn Thành T lấy bật lửa hơ khô đĩa rồi lấy ra 01 gói ma túy Ketamine đổ ra đĩa. Nguyễn Mạnh C đưa cho Nguyễn Thành T 01 thẻ căn cước mang tên mình để Nguyễn Thành T xào và kẻ Ketamine. Sau khi kẻ xong Nguyễn Thành T bê đĩa ma túy cho Đàm Văn H sử dụng rồi Nguyễn Thành T, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C, Lương Bình D tự sử dụng ma túy trong đĩa. Tiếp đó Đàm Nhật T bê đĩa ma túy Ketamine mời Nguyễn Trịnh D và Lò Thị S cầm tẩu hít ma túy trong đĩa. Cả nhóm sử dụng ma túy và nghe nhạc đến 00 giờ 05 phút ngày 03/01/2022 thì bị bắt quả tang. Tại phòng hát số 01 của quán Karaoke phát hiện nhóm đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy gồm Đàm Văn H, Lương Bình D, Đàm Nhật T, Nguyễn Thành T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Trịnh D, Lò Thị S, Nguyễn Thị Kiều O, Nguyễn Thị Xuân C, Vi Cẩm N. Ngoài ra, còn có Lưu Văn Y, sinh năm 2000, ở thôn 2, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng là nhân viên của quán cũng được đưa về Cơ quan Công an làm việc. Thu giữ tại mặt bàn phía trong sát tường nhìn từ cửa phòng vào có 01 đĩa sứ hình bầu dục kích thước 15cm x 25cm, trong lòng đĩa có 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Mạnh C, một tẩu cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cố định bằng 04 vỏ đầu lọc thuốc lá đều bám dính tinh thể màu trắng, 01 bật lửa ga đã qua sử dụng. Thu giữ tại túi quần phía sau bên trái của Nguyễn Thành T đang mặc có 01 túi nilon kích thước 05cm x 07cm, bên trong có 01 túi nilon kích thước 2,5cm x 2,5cm chứa tinh thể màu trắng. Thu giữ tại giá gương trong phòng vệ sinh có 01 vỏ chai thủy tinh dán nhãn bia Tiger cao 24cm, đường kính đáy 05cm, phần đáy bám dính chất bột màu hồng. Khám xét khẩn cấp khu vực có liên quan của quán Karaoke Diamond và nơi ở của các đối tượng, Cơ quan điều tra không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, gắn sim số 0936.222.689 của Đàm Văn H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, gắn sim số 0852.359.396 của Cao Văn L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 0967.909.282 của Đàm Nhật T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, gắn sim số 0839.328.222 của Nguyễn Thành T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 0869.033.431 của Nguyễn Trịnh D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, gắn sim số 0793.288.687 của Lương Bình D. Tiến hành kiểm tra điện thoại của các đối tượng phát hiện một số cuộc gọi và tin nhắn có nội dung liên quan đến vụ án.
Tiến hành kiểm tra nước tiểu của các đối tượng cho kết quả: Đàm Văn H, Lương Bình D, Đàm Nhật T, Nguyễn Thành T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Trịnh D dương tính với chất ma túy MDMA và Ketamine; các đối tượng Lưu Văn Y, Nguyễn Thị Kiều O, Vi Cẩm N, Nguyễn Thị Xuân C âm tính với các chất ma túy.
Tại Kết luận giám định số 07/KLGĐ ngày 10/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: mẫu nước tiểu của Lò Thị S (tức Lò Thị Phương Thúy) tìm thấy chất Dehydronorketamine, là sản phẩm chuyển hóa khi con người sử dụng chất ma túy Ketamine.
Tại bản Kết luận giám định số 04/KLGĐ-MT ngày 08/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng bám dính trên đĩa sứ, tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuốn tẩu và thẻ nhựa căn cước công dân gửi giám định đều là ma túy, loại Ketamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng ma túy bám dính; Tinh thể màu trắng bên trong túi nilon thu của Nguyễn Thành T gửi giám định có khối lượng 0,78 gam là loại Ketamine; Chất bột màu hồng bám dính bên ngoài phần đáy chai thủy tinh có dán nhãn bia Tiger là ma túy, loại MDMA, không đủ điều kiện xác định khối lượng ma túy bám dính.
Vật chứng vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong số 04MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ đựng còn lại sau giám định; 01 hộp giấy niêm phong số 04MT- A/PC09 bên trong có 01 đĩa sứ, 04 vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 vỏ chai thủy tinh; 01 phong bì niêm phong số 04MT-B/PC09 bên trong có 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 phong bì niêm phong số 04MT-C/PC09 bên trong chứa 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Mạnh C; 01 bật lửa ga đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mặt phía trước màu trắng, phía sau lưng màu vàng gắn sim số 0936.222.689 của Đàm Văn H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, gắn sim số 0852.359.396 của Cao Văn L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung mặt phía trước màu đen, mặt lưng sau màu đen ánh xanh gắn sim số 0967.909.282 của Đàm Nhật T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, gắn sim số 0839.328.222 của Nguyễn Thành T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 0869.033.431 của Nguyễn Trịnh D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, gắn sim số 0793.288.687 của Lương Bình D.
Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 27 tháng 5 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Đàm Văn H, Lương Bình D, Nguyễn Thành T, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 Ðiều 255 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà:
Các bị cáo trình bày đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên và đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên luận tội, kết tội đối với các bị cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Kiểm sát viên đề nghị kết tội các bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 282 Bộ luật Tố tụng Hình sự đình chỉ vụ án đối với bị cáo Nguyễn Thành T. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Ðiều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 (các bị cáo Lương Bình D và Đàm Nhật T có thêm khoản 2 Điều 51), Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đàm Văn H mức án từ 08 năm 06 tháng tù đến 09 năm tù, các bị cáo Lương Bình D và Đàm Nhật T mức án từ 08 năm tù đến 08 năm 06 tháng tù, các bị cáo Cao Văn L và Nguyễn Mạnh C mức án từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý theo quy định của pháp luật. Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.
[2] Về tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Các bị cáo Đàm Văn H, Lương Bình D, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C cùng thống nhất chung tiền mua ma túy, thuê phòng hát để sử dụng ma túy và cho người khác cùng sử dụng tại quán Karaoke Diamond thuộc xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ đêm ngày 02/01/2022 đến sáng ngày 03/01/2022. Bị cáo Đàm Văn H là người khởi xướng, phân công, thuê phòng hát và nhân viên nữ phục vụ để cả nhóm cùng sử dụng ma túy với nhân viên. Bị cáo Lương Bình D là người gọi điện nhờ bị cáo Nguyễn Thành T mua ma túy về sử dụng. Bị cáo Nguyễn Thành T trực tiếp đi mua ma túy, pha chế ma túy thuốc lắc, xào, kẻ ma túy Ketamine và mời mọi người trong phòng sử dụng ma túy. Bị cáo Cao Văn L chịu trách nhiệm thanh toán trước tiền phòng hát và tiền thuê nhân viên phục vụ. Bị cáo Nguyễn Mạnh C đưa thẻ căn cước công dân của mình cho bị cáo Nguyễn Thành T dùng xào, kẻ ma túy. Bị cáo Đàm Nhật T là người quấn tẩu, trực tiếp bê đĩa ma túy Ketamine mời Nguyễn Trịnh D và Lò Thị S khi đó 17 tuổi 6 tháng 07 ngày tuổi sử dụng. Nên hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 Ðiều 255 của Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung hình phạt Đối với 02 người trở lên và Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi. Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố các bị cáo như đã nêu trên và lời luận tội, kết tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng pháp luật.
[3] Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước về chất ma tuý gây mất trật tự trị an xã hội. Đây là vụ án đồng phạm, phân hóa vai trò những người đồng phạm xét thấy bị cáo Đàm Văn H là người đề xuất và thực hành tích cực nên vị trí, vai trò trong vụ án là cao nhất, bị cáo Nguyễn Thành T là người thực hành rất tích cực nên vị trí, vai trò trong vụ án là cao thứ hai, các bị cáo Lương Bình D, Đàm Nhật T là người thực hành tích cực nên vị trí, vai trò trong vụ án là cao thứ ba và các bị cáo Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C là người thực hành nên vị trí, vai trò trong vụ án là thấp nhất. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Lương Bình D, Đàm Nhật T đã phục vụ quân đội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo là người đã sử dụng ma túy thể hiện các bị cáo đều có nhân thân xấu và bị cáo Lương Bình D đã từng bị kết án nên có nhân thân xấu hơn các bị cáo khác. Vì vậy thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, như vậy mức hình phạt chính mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là tương đối phù hợp. Do bị cáo Nguyễn Thành T đã chết ngày 26/7/2022 nên đình chỉ vụ án đối với bị cáo Nguyễn Thành T.
[4] Tại khoản 5 Điều 255 của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung, do các bị cáo không có tài sản, là lao động tự do, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 04MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ đựng còn lại sau giám định, 01 đĩa sứ, 04 vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 vỏ chai thủy tinh, 01 bật lửa ga đã qua sử dụng là vật liên quan đến tội phạm và không còn giá trị sử dụng. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mặt phía trước màu trắng, phía sau lưng màu vàng gắn sim số 0936.222.689 của Đàm Văn H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung mặt phía trước màu đen, mặt lưng sau màu đen ánh xanh gắn sim số 0967.909.282 của Đàm Nhật T, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, gắn sim số 0839.328.222 của Nguyễn Thành T, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 0869.033.431 của Nguyễn Trịnh D, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, gắn sim số 0793.288.687 của Lương Bình D do liên quan và dùng vào việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo Cao Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, gắn sim số 0852.359.396 do không dùng vào việc phạm tội. 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Mạnh C là giấy tờ cá nhân nhưng do dùng vào việc phạm tội nên giao cho Công an huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xử lý theo thẩm quyền.
[6] Trong vụ án này: Đối với Nguyễn Trịnh D có hành vi đưa cho Đàm Nhật T tờ tiền 10.000 đồng, Nguyễn Trịnh D không biết việc Đàm Nhật T xin tiền để quấn tẩu sử dụng ma túy, không tham gia bàn bạc, đóng góp cho việc sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng hát, bản thân Nguyễn Trịnh D cũng là đối tượng được thụ hưởng ma túy, hành vi của Nguyễn Trịnh D chưa đủ yếu tố cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý. Các đối tượng Nguyễn Trịnh D và Lò Thị S có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Công an đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với Đào Văn C, Lưu Văn Y là quản lý và nhân viên phục vụ của quán Karaoke Diamond, không biết việc nhóm Đàm Văn H thuê phòng hát để sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý. Đối với Nguyễn Thị O là chủ quán Karaoke Diamond, kinh doanh dịch vụ Karaoke nhưng không có giấy phép kinh doanh, không có giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự, hoạt động kinh doanh không đảm bảo về các điều kiện an toàn phòng cháy, chữa cháy nên Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối tượng bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thành T, quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
[7] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Ðiều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Đàm Văn H 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 03/01/2022.
- Cao Văn L 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 03/01/2022.
- Nguyễn Mạnh C 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 03/01/2022.
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Ðiều 255, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Lương Bình D 08 (tám) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 03/01/2022.
- Đàm Nhật T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 03/01/2022.
Căn cứ các điều 282, 299 và 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đình chỉ vụ án đối với bị cáo Nguyễn Thành T.
Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 04MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ đựng còn lại sau giám định; 01 hộp giấy niêm phong số 04MT- A/PC09 bên trong có 01 đĩa sứ, 04 vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 vỏ chai thủy tinh; 01 bật lửa ga đã qua sử dụng. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng trong phong bì niêm phong số 04MT-B/PC09; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mặt phía trước màu trắng, phía sau lưng màu vàng gắn sim số 0936.222.689; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung mặt phía trước màu đen, mặt lưng sau màu đen ánh xanh gắn sim số 0967.909.282; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, gắn sim số 0839.328.222; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 0869.033.431; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, gắn sim số 0793.288.687. Trả lại cho bị cáo Cao Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, gắn sim số 0852.359.396. Giao cho Công an huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Mạnh C trong phong bì niêm phong số 04MT-C/PC09 để xử lý theo thẩm quyền (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).
Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Đàm Văn H, Lương Bình D, Đàm Nhật T, Cao Văn L, Nguyễn Mạnh C mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST
Số hiệu: | 70/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về