Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 65/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 09 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 09 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 09 năm 2022 đối với bị cáo:

Chu Thành Đ, sinh năm 2003 tại M, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Nơi cư trú: Thôn H, xã M, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn M5 và bà Nguyễn Thị T; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam X ngày 10/04/2022 (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Dương Quốc Q, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N, xã S, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang;

- Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn D X, xã Z, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang;

- Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 2005 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn G, xã C5 Lục, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang;

- Chị Vũ Thị H, sinh năm 2005 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đng, xã Z, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 30 phút, ngày 09/4/2022, tại thôn Phương Lạn 2, xã Phương Sơn (nay là thị trấn Phương Sơn), huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Công an huyện Lục Nam phối P1 cùng Công an xã Phương Sơn, huyện Lục Nam kiểm tra quán Karaoke Hoàng Hải do Trương Văn H6, sinh năm 1975 trú tại thôn Phương Lạn 5, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam làm chủ, phát hiện tại phòng hát số 3 tầng 1 các đối tượng: Dương Quốc Q, sinh năm 1996 trú tại thôn N, xã S, huyện Lục Nam; Dương Minh H2, sinh năm 1998 trú tại Tổ 10 Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; Cao Trí Thức, sinh năm 1998 trú tại C1, xã G1, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; Nguyễn Văn H2, sinh năm 1998 trú tại Xóm Lai 2, xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; Đỗ Phương Nam, sinh năm 2003; Nguyễn Hữu P1, sinh năm 2002; Đỗ Minh K, sinh năm 1998; Dương Việt Đức, sinh năm 1996 cùng trú tại thôn M2, xã M, huyện Lục Nam; Nguyễn Văn D, sinh năm 1996 trú tại thôn D X, xã Z, huyện Lục Nam; Chu Thành Đ, sinh năm 2003; Chu Thành Gia, sinh năm 2002; Chu Việt Anh, sinh năm 2005; Chu Văn Hà, sinh năm 2000 cùng trú tại thôn H, xã M, huyện Lục Nam; Nguyễn Đức Nam, sinh năm 1991 trú tại A, xã M, huyện Lục Nam; Nguyễn Thị P (tức Nguyễn H P), sinh năm 2005 trú tại thôn G, xã C5 Lục, huyện Lạng Giang; Vũ Thị H, sinh năm 2005 trú tại thôn Đng, xã Z, huyện Lục Nam (P và H là nhân viên quán hát) có biểu hiện tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại phòng hát Vip 5 tầng 2 có 08 người đang hát Karaoke gồm: Nguyễn Kiêm Đạt, sinh năm 1994 trú tại Minh Kha, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội; Giáp Huy, sinh năm 1998 trú tại khu Tập thể B2, phường Vĩnh Hồ, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Đỗ Quang C3, sinh năm 1996 trú tại thôn Phương Lạn 3, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam; Đỗ Việt Trung, sinh năm 1996 trú tại thôn M2, xã M, huyện Lục Nam; Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1997 trú tại V1, thị trấn N3, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; Phạm Thanh Tùng, sinh năm 1995 trú tại Ngõ 102, phường Khương Trung, thành phố Hà Nội; Vũ Hải Y1, sinh năm 1998 trú tại khu Đ thị Đ3, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; Dương T Q2, sinh năm 1998 trú tại ngõ 147 Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Vật chứng thu giữ gồm: Tại phòng hát số 3 tầng 1 gồm: 01 (một) túi nilon mầu trắng được hàn kín, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền mầu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể mầu trắng nghi là ma túy; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng cuộn hình trụ gắn với hai đầu lọc thuốc lá, bên trong có bám dính chất tinh thể mầu trắng nghi là ma túy thu giữ tại nền cạnh cửa ra vào trong phòng hát, được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu “QT1”; tại mặt ghế nơi Dương Quốc Q ngồi thu giữ 01 (một) túi nilon mầu trắng được hàn kín, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền mầu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể mầu trắng nghi là ma túy, được niêm phong trong phong bì thư có ký hiệu “QT2” ; tại nền nhà cạnh cửa ra vào 01 (một) thẻ card (thẻ nhựa) mầu đen một mặt có chữ DOLCEGABBANA, bên trên mặt bám dính chất tinh thể mầu trắng, được niêm phong trong phong bì thư có ký hiệu “QT3”; tại cạnh tường phía trong phòng 01 (một) chiếc đĩa sứ hình tròn mầu trắng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax mầu xanh rêu, số Emei1: 353896103414870, số Emei2: 353896103266445 của Chu Thành Đ .

Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam đã trưng cầu giám định chất thu giữ nghi là ma túy. Tại kết luận giám định số 573/KL-KTHS ngày 14/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu “QT1” đã được niêm phong gửi giám định: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có tổng khối lượng 2,436 gam, loại Ketamine. Chất tinh thể mầu trắng bám dính trong 01 (một) tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng được cuộn hình trụ, gắn với hai vỏ đầu lọc thuốc lá là ma túy, loại Ketamine, không xác định được khối lượng mẫu.

Trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu “QT2” đã được niêm phong gửi giám định: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa viền mầu đỏ đều là ma túy, có tổng khối lượng 3,187 gam, loại Ketamine.

Trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu “QT3” đã được niêm phong gửi giám định: Chất tinh thể màu trắng bám dính trên 01 (một) thẻ card (thẻ nhựa) mầu đen một mặt có chữ DOLCEGABBANA là ma túy, loại Ketamine, không xác định được khối lượng mẫu.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định dấu vết đường vân trên mẫu vật chứng thu giữ. Tại kết luận giám định số 803a/KL-KTHS ngày 14/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Trên thẻ card màu đen mặt có chữ DOLCEGABBANA niêm phong trong phong bì thư ký hiệu”QT3” phát hiện 02 (hai) dấu vết đường vân bằng phương pháp xông keo, đường vân màu trắng thể hiện rõ đặc điểm, đủ yếu tố giám định; Dấu vết đường thu trên thẻ card màu đen mặt có chữ DOLCEGABBANA niêm phong trong phong bì thư ký hiệu”QT3” so với dấu vân in ở ô “trỏ phải” và “nhẫn phải” trên chỉ bản mang tên Nguyễn Hữu P1, sinh năm 2002 ở thôn M2, xã M, huyện Lục Nam, Bắc Giang là của cùng một người; Trên các mẫu vật còn lại không phát hiện thấy dấu vết đường vân.

Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam đã test kiểm tra việc sử dụng ma túy đối với Chu Thành Đ, Dương Quốc Q, Dương Minh H2, Nguyễn Kiêm Đạt, Nguyễn Văn H2, Cao Trí Thức, Nguyễn Văn D, Đỗ Phương Nam, Vũ Thị H, Nguyễn Thị P, Chu Văn Hà, Chu Việt Anh, Nguyễn Hữu P1, Đỗ Minh K, kết quả đều dương tính với chất ma túy MDMA, Methamphetamine và Ketamine. Ngày 10/4/2022, Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam tiến hành thu giữ mẫu nước tiểu của các đối tượng cho vào các chai nhựa đậy kín, niêm phong và ký hiệu lần lượt: Nguyễn Hữu P1 có mẫu “M1”; Nguyễn Văn H2 có mẫu “M2” Chu Văn Hà có mẫu “M3”; Dương Quốc Q có mẫu “M4”; Đỗ Phương Nam có mẫu “M5”; Nguyễn Văn D có mẫu “M6”; Đỗ Minh K có mẫu “M7”; Chu Thành Đ có mẫu “M8”; Cao Trí Thức có mẫu “M9”; Nguyễn Thị P có mẫu “M10”; Chu Việt Anh có mẫu “M10A”; Dương Minh H2 có mẫu “M11”; Nguyễn Kiêm Đạt có mẫu “M12”; Dương Việt Đức có mẫu “M13”; Vũ Thị H có mẫu “M14” để trưng cầu giám định.

Tại kết luận giám định số 606/KL-KTHS ngày 19/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Trong các mẫu chất lỏng mầu vàng (nước tiểu), được niêm phong, ký hiệu: “M1”, “M2”, “M3”, “M4”“M5”, “M6”, “M7”, “M9”, “M10”, “M10A”, “M11”, “M14” gửi giám định đều tìm thấy Dehydrronorketamine và chất ma túy MDMA. Trong các mẫu chất lỏng mầu vàng (nước tiểu), được niêm phong, ký hiệu: “M8”, “M12”, gửi giám định đều tìm thấy Dehydrronorketamine. Trong mẫu chất lỏng mầu vàng (nước tiểu), được niêm phong, ký hiệu: “M13” gửi giám định không tìm thấy chất ma túy. (Dehydrronorketamine là sản phẩm chuyển hóa của chất ma túy Ketamine trong cơ thể).

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận như sau: Buổi chiều ngày 09/4/2022, Đỗ Việt Trung tổ chức đám cưới và mời bạn bè đến dự, trong lúc ăn cơm, uống rượu Trung và một số người bạn rủ nhau ăn xong thì đi hát Karaoke. Theo Đ khai khoảng hơn 19 giờ cùng ngày sau khi ăn uống xong thì Đ cùng Nguyễn Hữu P1, Đỗ Phương Nam, Đỗ Minh K và Đỗ Việt Trung đi ra đứng cạnh cổng rạp nói chuyện về việc gọi ma túy để mang lên chỗ hát sử dụng, trong lúc nói chuyện Đ bảo K "anh K điện đi" (ý là điện lấy ma túy). Sau đó Đ cùng P1, Nam đi về cổng nhà P1 ngồi đợi, lúc này có Chu Thành Gia đi đến thì Đ cùng Gia đi lên quán Karaoke T&T ở thôn Trung Hậu, xã M, huyện Lục Nam trước nhưng không thấy ai. Đ đi bộ một mình lên quán Karaoke Hoàng Hải ở thôn Phương Lạn 2, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang còn Gia đi cùng Nam. Khi đi đến cửa quán hát Hoàng Hải, Đ thấy Gia và Nam đứng trước cửa quán, Đ cùng Nam, Gia đi vào phòng hát số 3 ở tầng 1 thì thấy Dương Quốc Q, Nguyễn Văn D, Nguyễn Hữu P1, Dương Việt Đức, Đỗ Việt Trung đang mở nhạc hát và sử dụng bóng cười. Đ sử dụng 01 quả bóng cười rồi đi ra ngoài quầy uống nước ngồi thì gặp Nguyễn Thị P đang đứng ở đây. Lúc này trong phòng hát có người gọi ra nói “cho mượn cái đĩa” thì Chu Việt Anh (là người quản lý) đưa cho P 01 chiếc đĩa sứ mầu trắng hình tròn, P mang vào phòng để ở mặt bàn rồi đi ra ngoài. Khoảng 15 phút sau, Đ quay lại phòng hát thì mọi người bật đèn điện trong phòng để dọn bóng cười, do đèn điện sáng nên Đ nhìn thấy ở trên mặt bàn có để 02 túi nilon ma túy Ketamine và 05 viên ma túy tổng P1 dạng kẹo (MDMA) cùng 01 đĩa sứ mầu trắng hình tròn, 01 tấm thẻ card (thẻ nhựa) mầu đen, 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng được cuộn thành hình trụ gắn với hai đầu lọc thuốc lá. Sau khi dọn bóng cười xong mọi người trong phòng hát tắt điện, Đ đã lấy viên ma túy ở trên bàn bẻ ra thành ba mảnh nhỏ và hỏi Dương Quốc Q và Nguyễn Văn D “có chơi không”, D và Q trả lời “có”. Đ đưa cho D và Q mỗi người một mảnh viên ma túy để sử dụng còn lại Đ để ở bàn. Sau đó Đ đi ra cửa phòng hát đứng thì Nguyễn Thị P và Vũ Thị H hỏi “còn kẹo không cho em xin mảnh” (Đ hiểu là xin ma túy để sử dụng) nên Đ đã đi vào phòng hát lấy 01 viên ma túy bẻ thành hai phần rồi mang ra đưa cho P và H mỗi người một nửa viên ma túy để sử dụng. Lúc sau khi Đ đang ngồi trong phòng hát thì có người bảo “Đ xào ke đi” (tức là ke ma túy thành các đường để hít) nên Đ đã lấy túi ma túy Ketamine ở trên bàn rồi đổ một phần ra đĩa sứ. Đ dùng tấm thẻ card xào, kẻ thành các đường Ke. Sau khi Ke xong Đ mời D và Q sử dụng thì D và Q mỗi người sử dụng 02 đường Ke. Đ tiếp tục kẻ các đường Ke mới rồi bê sang mời H và P, H và P dùng ống hút và hít mỗi người 02 đường Ke. Sau đó Đ cũng hít 02 đường Ke rồi Đ để đĩa ma túy trên bàn ngồi nghe nhạc. Cùng lúc này có đối tượng tên Cường (không xác định được) đưa Đỗ Minh K, Dương Minh H2, Cao Trí Thức, Nguyễn Văn H2 đến rồi Cường lấy ma túy ở bàn Ke rồi cùng các đối tượng sử dụng. Trong quá trình hát Karaoke nhóm bạn Đỗ Việt Trung hát ở 02 phòng là phòng hát số 3 tầng 1 và phòng hát vip 5 tầng 2. Khi Trung vào phòng hát số 3 tầng 1 thấy mọi người sử dụng bóng cười nên Trung đi lên phòng Víp 5 hát cùng mọi người. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày khi các đối tượng đang cùng nhau hát và sử dụng ma túy tại phòng hát số 3, tầng 1 thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam cho Nguyễn Hữu P1, Vũ Thị H, Nguyễn Thị P, Nguyễn Văn D nhận dạng ảnh đối tượng xào ma túy Ketamine, đưa ma túy cho để sử dụng, kết quả các đối tượng đều nhận ra Chu Thành Đ là người đã xào ma túy Ketamine và là người đưa ma túy cho mọi người sử dụng vào tối ngày 09/4/2022 tại quán Karaoke Hoàng Hải.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra cho Chu Thành Đ thực hiện lại động tác, chỉ vị trí, xác định hiện trường tại quán Karaoke Hoàng Hải, kết quả: Chu Thành Đ thực hiện, chỉ phù P1 với lời khai của Đ cùng lời khai của những người liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ.

Về vật chứng gồm: Đối với bì thư ký hiệu "QT1"; "QT2" bên trong là ma túy được hoàn lại sau giám định được tách ra để tiếp tục điều tra; còn tờ tiền 20.000 đồng, thẻ card (trong bì thư ký hiệu "QT1"; "QT3"); 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn;

01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone 11 Promax màu xanh rêu, Cơ quan điều tra chuyển xử lý cùng vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 56/CT-VKS ngày 07/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đã truy tố bị cáo Chu Thành Đ phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, D diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam trình bày lời luận tội, phân tích hành vi của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và tuyên bố bị cáo Chu Thành Đ phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Áp dụng điều luật và xử phạt đối với bị cáo như sau:

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Chu Thành Đ X 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính X ngày tạm giữ, tạm giam. Miễn hành phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 tờ tiền M5 giá 20.000 đồng niêm phong trong phong bì thư ký hiệu QT1; tịch thu tiêu hủy 01 thẻ card được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT3”; 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc kH2 nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, bị cáo cũng không có kH2 nại gì. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều P1 pháp.

[2]. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Chu Thành Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu ở trên. Lời khai của bị cáo phù P1 với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng hơn 19 giờ ngày 09/4/2022, tại phòng 3 tầng 1 quán Karaoke Hoàng Hải ở thôn Phương Lạn 2, xã Phương Sơn (nay là thị trấn Phương Sơn), huyện Lục Nam, Chu Thành Đ có hành vi phân chia ma túy dạng kẹo MDMA và xào ma túy Ketamine cho Dương Quốc Q, Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị P và Vũ Thị H sử dụng trái phép. Tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự quy định: Người nào tổ chức trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào “thuộc một trong các trường P1 sau đây, thì bị phạt tù X 07 năm đến 15 năm: a) phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên;…”.

[3]. Như vây, hành vi của bị cáo Chu Thành Đ đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý việc sử dụng ma túy của Nhà nước vào mục đích chữa bệnh, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người dân, trật tự, an toàn xã hội.Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

[4.1]. Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ông nội bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng C3 hạng nhất, ông ngoại bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng C3 hạng nhì trong cuộc kháng C3 chống Mỹ cứu nước nên bị cáo còn được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4.2]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5]. X những phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

6]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền X 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, ngoài hình phạt chính là phạt tù, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo là người chưa có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7]. Về vật chứng: 01 tờ tiền M5 giá 20.000 đồng các đối tượng dùng vào việc sử dụng ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 01 thẻ card được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT3”, 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8]. Quá trình điều tra bị cáo Chu Văn Đ khai cùng Đỗ Việt Trung, Nguyễn Hữu P1, Đỗ Minh K, Đỗ Phương Nam thống nhất việc gọi, tổ chức sử dụng ma túy, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng không có căn cứ xử lý đối với các đối tượng trên. Tại phiên tòa, bị cáo Chu Thành Đ xác nhận không có việc bị cáo và các đối tượng trên cùng nhau thống nhất việc gọi và tổ chức cho các đối tượng khác sử dụng ma túy nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với các đối tượng trên là có cơ sở.

[9]. Đối với dấu vết đường vân trên thẻ card mầu đen có chữ DOLCEGABBANA kết quả giám định là của Nguyễn Hữu P1, quá trình điều tra xác định khi hát Karaoke P1 đã dùng thẻ card để Ke ma túy rồi tự sử dụng; còn đối tượng tên Cường lấy ma túy trên bàn Ke cho các đối tượng cùng sử dụng, quá trình điều tra không xác định được nên Cơ quan điều tra không có căn cứ truy tìm, xử lý.

[10]. Đối với Chu Việt Anh là quản lý quán Karaoke, Nguyễn Thị P là nhân viên phục vụ đưa và mang đĩa sứ vào phòng hát cho các đối tượng, không biết việc các đối tượng dùng để Ke ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

[11]. Đối với Nguyễn Hữu P1, Nguyễn Văn H2, Chu Văn Hà, Dương Quốc Q, Đỗ Phương Nam, Nguyễn Văn D, Đỗ Minh K, Cao Trí Thức, Nguyễn Thị P, Dương Minh H2, Nguyễn Kiêm Đạt, Vũ Thị H và Chu Thành Đ có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy, Công an huyện Lục Nam đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với các đối tượng trên. Đối với Trương Văn H6 là chủ cở sở kinh doanh Karaoke để xảy ra hoạt động tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong khu vực được quản lý. Ngày 29/7/2022 theo đề nghị của Công an huyện Lục Nam, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với số tiền 15.000.000 đồng và tước giấy phép kinh doanh 09 tháng là phù P1 với quy định của pháp luật.

[12]. Đối với số ma túy Ketamine thu giữ tại phòng hát số 3 tầng 1, quá trình điều tra Đ không thừa nhận là ma túy của mình, Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam chưa đủ căn cứ xác định nguồn gốc số ma túy trên là của ai nên tách ra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào có căn cứ thì xử lý sau là phù P1 với quy định của pháp luật.

[13]. Về án phí: Bị cáo phạm tội nên căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[14]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Chu Thành Đ 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính X ngày tạm giữ, tạm giam 10/04/2022.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 tờ tiền M5 giá 20.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ card được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT3”; 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn. Trả lại bị cáo Chu Thành Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Chu Thành Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Trường P1 bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Báo cho bị cáo có mặt biết, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể X ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể X ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;