Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2023/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 9 năm 2023;

Bị cáo: Lê Văn T sinh ngày 19 tháng 9 năm 1999; sinh quán: Xã Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam; ĐKHKTT: Thôn P, xã Đại Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn P (sinh năm 1977) và bà Dương Thị H ( sinh năm 1976) đều làm nông tại thôn P, xã Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo con đầu chưa có vợ.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 09/4/2015, bị Công an huyện Đại Lộc xử phạt hành chính về hành vi: “ Trộm cắp tài sản”.

Biện pháp ngăn chặn: Bị caó bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đại Lộc; có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Lê Quốc T, sinh ngày 04 tháng 6 năm 2006; trú tại: Thôn P, xã Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam; có mặt.

+ Ông Nguyễn Duy H, sinh năm 1972; trú tại: Thôn An N, xã H, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.

+ Ông Lê Văn P, sinh năm 1977; trú tại: Thôn P, xã Đại Đ, huyện Dại Lộc, tỉnh Quảng Nam; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 10/3/2023, bị cáo Lê Văn T điều khiển xe mô tô BKS 92E1-xxxxx (do ông Lê Văn P ( cha bị cáo, sinh năm 1977 làm chủ sở hữu) đi mua ma tuý. Bị cáo T đi đến đoạn đường bê tông nội đồng thuộc thôn P, xã Đ thì gọi điện cho Lê Quốc T (sinh ngày 04/6/2006, trú thôn P, xã Đ) hỏi mượn bộ dụng cụ sử dụng ma tuý thì T đồng ý. T mang bộ dụng cụ ma tuý (gồm một nắp nhựa có cắm hai ống hút, 01 ống bằng nhựa và 01 ống bằng thuỷ tinh) đến đưa cho T rồi đi về.

Bị cáo T đem bộ dụng cụ cất giấu ở bụi cỏ bên đường rồi đi mua ma tuý. Bị cáo T đến thôn Trường An, xã Đại Quang liên lạc với một người tên C (không xác định được nhân thân lai lịch) mua 01 gói ma tuý 200.000 đồng. Bị cáo T đem gói ma tuý về cất giấu cùng với bộ dụng cụ sử dụng rồi đến quán tạp hoá thôn P mua thuốc hút.

Tại quán tạp hoá thôn P, bị cáo T gặp Nguyễn Duy H (sinh năm 1972, trú tại thôn An Ngãi Đ, xã Hoà S, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng là người T quen biết trước đó) nên rủ H đi sử dụng ma tuý thì H đồng ý. Bị cáo T điều khiển xe chạy trước, H điều khiển xe mô tô BKS 60B6-xxxx chạy theo sau.

Đến nơi cất giấu ma tuý, bị cáo T tìm được một vỏ chai nhựa, gắn dụng cụ sử dụng, bỏ ma tuý vào rồi cùng với H sử dụng. Trong lúc đang sử dụng thì bị cáo T gọi điện cho T rủ đến sử dụng cùng. T, H và T sử dụng đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì bị Công an xã Đại Đồng kiểm tra phát hiện. Công an xã Đại Đồng tiến hành test nhanh, cả ba đều dương tính với chất ma tuý nên Công an lập biên về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, thu giữ và niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 510/KL-KTHS ngày 27/3/2023 của Phân viện KHHS tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất màu nâu bám dính trong ống thuỷ tinh, trong chai nhựa, trong ống hút nhựa, trong vỏ túi ni lông gửi giám định đều có tìm thấy chất ma tuý, loại Methamphetamine; lượng chất bám dính quá nhỏ nên không xác định được khối lượng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 phong bì niêm phong số 510/KL-KTHS của Phân Viện KHHS hoàn trả sau khi giám định (trong phong bì còn có 01 bật lửa ga, nhãn hiệu “Hoa Việt”) - 01điện thoại di động hiệu Redmi, màu xanh, có gắn sim số 033593xxxx đã qua sử dụng (của Lê Văn T) - 01điện thoại di động hiệu Iphon X, màu trắng, có gắn sim số 092442xxxx đã qua sử dụng (của Lê Quốc T) - 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 60B6-xxxx đã qua sử dụng (của Nguyễn Duy H) Riêng đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đen, BKS 92E1- xxxxx đã trả lại cho ông Lê Văn P là chủ sở hữu.

Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Đại Lộc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Lộc, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên toà những người tham gia tố tụng không ai có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do đó, hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng số: 53 /CT-VKSĐL ngày 28/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Lộc và Kiểm sát viên luận tội bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn T đã phạm vào tội:“ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về áp dụng hình phạt: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị caó Lê Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Ngày 09/4/2015, bị Công an huyện Đại Lộc xử phạt hành chính về hành vi: “ Trộm cắp tài sản”.

Do hành vi phạm tội của bị cáo của bị cáo nghiêm trọng, tội phạm về ma tuý dẫn đến các tệ nạn xã hội, hệ luỵ khó lường. Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc đúng hành vi của bị cáo và phục vụ cho công cuộc đấu trang phòng chống tội phạm trên địa bàn nhất là những tội phạm có liên quan đến ma tuý.

Kiểm sát viên đề nghị áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 07 đến 08 năm tù.

Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01( một) phong bì niêm phong số 510/KL-KTHS của Phân Viện KHHS hoàn trả sau khi giám định (trong phong bì còn có 01 bật lửa ga, nhãn hiệu “Hoa Việt”);

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

+ 01( một) điện thoại di động hiệu hiệu Redmi, màu xanh, có gắn sim số 033593xxxx đã qua sử dụng (của bị cáo Lê Văn T) - Trả cho Lê Quốc T 01( một) điện thoại di động Iphone X, màu trắng, có gắn sim số 092442xxxx đã qua sử dụng;

- Trả cho anh Nguyễn Duy H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 60B6-xxxx đã qua sử dụng.

Bị cáo tự bào chữa tại phiên toà:

Tại phiên toà, các bị cáo Lê Văn T tự bào chữa khai nhận bị bắt quả tang hành vi tổ chức sử dụng ma tuý trái phép, bị cáo nhận tội không có tranh luận gì.

Bị cáo thống nhất Cáo trạng của Viện kiếm sát nhân dân huyện Đại Lộc và luận tội của Kiểm sát viên, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[ 1 ] Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Đại Lộc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Lộc, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không ai có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do đó, hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa vắng mặt 01 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị tiếp tục xét xử. Hội đồng xét xử sau khi hội ý đã thống nhất xét xử theo quy định của pháp luật.

Về nội dụng :

[2] Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng và luận tội bị cáo. Bị cáo Lê Văn T nhận tội, không kêu oan mà xin giảm nhẹ hình phạt. Lời khai nhận tội của các bị cáo Lê Văn T khoảng 20 giờ ngày 10/3/2023, tại đường bê tông nội đồng thuộc thôn P, xã Đ, huyện Đại Lộc, bị cáo đã có hành vi phạm tội” Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý ” bị Công an xã Đại Đồng kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Lê Văn T có hành vi tổ chức sử sử chất ma tuý trong trường hợp Lê Quốc T (16 tuổi 09 tháng 06 ngày) có 02 người trở lên là Nguyễn Duy H sử dụng trái phép chất ma tuý.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận luận tội của Kiểm sát viên, tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội :“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý ” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

[3] Về áp dụng hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tính nguy hiểm hành vi phạm tội của của bị cáo, nhân thân các bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên bị cáo đó là: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Hội đồng xét xử áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ ở điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017)

[4] Hội đồng xét xử thống nhất luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà, tội phạm mà bị cáo thực hiện rất nguy hiểm cho xã hội, là hệ luỵ các tệ nạn xã hội khác trên địa bàn. Bị cáo có 2 tình tiết định khung hình phạt, nhân thân xấu nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để giáo dục cải tạo bị cáo và phục vụ cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma tuý trên địa bàn. Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn T 08 năm tù là đúng quy định pháp luật;

Thời hạn chấp hành án được tính từ ngày tạm giữ 23/5/2023;

[5] Về xử lý vật chứng:

Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà, áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự vì các vật chứng trên là phương tiện, công cụ phạm tội.

- Tịch thu tiêu huỷ:

01 ( một) phong bì niêm phong số 510/KL-KTHS của Phân Viện KHHS hoàn trả sau khi giám định (trong phong bì còn có 01 bật lửa ga, nhãn hiệu “Hoa Việt”);

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

01 ( một) điện thoại di động hiệu hiệu Redmi, màu xanh, có gắn sim số 033593xxxx đã qua sử dụng (của Lê Văn T) - Trả cho Lê Quốc Thịnh 01 ( một) điện thoại di động Iphone X, màu trắng, có gắn sim số 092442xxxx đã qua sử dụng;

- Trả cho anh Nguyễn Duy H 01 ( một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 60B6-xxxx đã qua sử dụng.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/ 2016/ UBTVQH.14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo số tiền: 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

[7] Các vấn đề khác trong vụ án:

Hội đồng xét xử thống nhất đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà:

Đối với người tên C có hành vi “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Hiện nay, chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Điều tra tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau. Đối với Nguyễn Duy H và Lê Quốc T có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý cùng bị cáo T, trong quá trình điều tra xác định H và bị cáo T chỉ là người hưởng thụ nên Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý là phù hợp. Đối với ông Lê Văn P là chủ sở hữu xe mô tô BKS 92E1-xxxxx, bị cáo T sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội, ông P không biết nên không đề cập xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội,

1. Tuyên bố:

Bị cáo Lê Văn T đã phạm tội:“ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý ” Xử phạt bị cáo Lê Văn T mức hình phạt: 08 ( tám) năm tù;

Thời hạn chấp hành án được tính từ ngày tạm giữ 23/5/2023 ( ngày hai mươi ba, tháng năm, năm hai ngàn không trăm hai ba);

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01( một) phong bì niêm phong số 510/KL-KTHS của Phân Viện KHHS hoàn trả sau khi giám định (trong phong bì còn có 01 bật lửa ga, nhãn hiệu “Hoa Việt”);

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

+ 01( một) điện thoại di động hiệu hiệu Redmi, màu xanh, có gắn sim số 033593xxxx đã qua sử dụng (của Lê Văn T)

- Trả cho Lê Quốc T 01( một) điện thoại di động Iphone X, màu trắng, có gắn sim số 092442xxxx đã qua sử dụng;

- Trả cho Nguyễn Duy H 01 ( một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 60B6-xxxx đã qua sử dụng.

Hiện vật chứng đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đại Lộc.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo số tiền: 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm;

người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án, hoặc niêm yết, tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Lộc - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;