Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 63/2021/HS-PT NGÀY 20/07/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 43/2021/TLPT-HS ngày 24 tháng 5 năm 2021 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2021/HS-ST ngày 14 tháng 4 năm 2021 và Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Hữu T, sinh ngày 14 tháng 01 năm 1970 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 1 B171 tổ 4, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 12/28/317B đường Đ, phường V, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu P (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T (đã chết); có vợ là V Thiên L, sinh năm 1975 và 02 con; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2017/HSST ngày 25/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tiền sự: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 30 ngày 25/9/2019 của Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hải Phòng, xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP; nhân thân: Bản án số 29/HSST ngày 12/3/1988 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 13/HSST ngày 27/12/1991 của Tòa án nhân dân thị xã Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa; Bản án hình sự phúc thẩm số 35/HSST ngày 13/3/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; Bản án số 29/2005/HSST ngày 07/4/2005 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị tạm giữ ngày 17/4/2020; tạm giam ngày 24/4/2020; có mặt.

Bị cáo không kháng cáo:

Phm Diệu L, sinh ngày 01 tháng 9 năm 1990 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 9/99 đường C, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Nhân viên spa; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Quốc T và bà: Trần Thị Y; có chồng là V Văn S (đã ly hôn) và 03 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014; nhân thân, tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 17/4/2020; tạm giam từ ngày 24/4/2020; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh H Xuân V, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 8/23 đường P, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Anh Đào Mạnh H, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 10/23 đường P, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Anh Lê Danh H, sinh năm 1997; địa chỉ: Số 9/94/29 đường H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 00 ngày 16/4/2020, H Xuân V đến nhà Đào Mạnh H ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, H và V nảy sinh ý định đi nghe nhạc và sử dụng ma túy. H nói với V: “Mày tìm chỗ để anh em mình đi nghe nhạc, xem có ai thì rủ đi cùng”, V đồng ý. Sau khi gọi điện thuê được phòng, V gọi điện cho Phạm Diệu L và Lê Danh H với nội dung rủ đi nghe nhạc thì H và L đều đồng ý . Sau đó V bảo H lấy xe ô tô Honda City BKS: 15A- 530.60 chở V đi đón L và H. Trên đường đi, H gọi điện cho T nói: “Anh đang ở đâu, đi chơi với em không?”. T đồng ý và bảo H đến ngã tư Quán Mau, Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng đón. Khi được V rủ đi nghe nhạc thì T, L và H đều hiểu là đi sử dụng ma túy vì trước đó các đối tượng đã từng sử dụng ma túy với nhau.

V bảo H điều khiển xe ô tô của gia đình V chở V đi đón H, T, L. Khi cả nhóm ngồi trên xe thì V hỏi L : “chị có Ke không, cho em một ít để sử dụng trước ?”. L trả lời : “chị có hai túi Ke nhưng không được ngon lắm”. Lúc này Thành nói : “anh còn một ít đây, dùng thử xem có ôkê không”. T đưa gói ma túy cho V xem, V xem xong đưa cho L. V lấy 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng cuộn thành ống hút rồi đưa cho H. L đưa gói ma túy cùng bật lửa ga cho H để H miết mịn Ketamine để mọi người sử dụng. H lấy trong người ra tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, bóc gói ma túy đổ một ít Ketamine lên mặt tờ tiền và dùng bật lửa miết mịn Ketamine để sử dụng. H là người sử dụng ma túy đầu tiên rồi đưa tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng có chứa ma túy cùng ống hút để V sử dụng. V cầm tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng có chứa ma túy cùng ống hút và sử dụng ma túy. Sử dụng ma túy xong, V để tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng có chứa ma túy cùng ống hút xuống cạnh phanh tay của xe ô tô. Sau khi sử dụng xong ma túy, V kêu mệt và bảo H chở V về nhà.

Sau khi chở V về nhà, H chở L, T, H đến nhà nghỉ H Gia, lô 7C đường Lê Hồng Phong, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Trên đường đi L bảo H chở L về nhà L để L lấy loa nghe nhạc và đèn led nhiều màu. Lấy được loa, đèn xong cả nhóm đến nhà nghỉ H Gia và lấy phòng 701. Vào phòng ngồi chơi một lúc thì H gọi cho V bảo đến nhà nghỉ sau đó H quay lại để đón V đến chơi với cả nhóm. Khi H đến nhà V, trong lúc đợi V ở ngoài H cầm tờ tiền mệnh giá 5.000đ trong có chứa ma túy dùng ống hút, hít Ketamine vào cơ thể. H sử dụng ma túy xong thì V vào trong xe. V thấy số ma túy H sử dụng còn thừa trong tờ tiền mệnh giá 5000đ thì cầm lên sử dụng, sau đó đặt lại vị trí cũ.

Khi H đi, L lấy từ trong túi xách ra 01 túi nilon kích thước khoảng 1,5x1,5cm trong chứa 03 viên nén màu hồng đặt lên mặt bàn cạnh chiếc đĩa sứ màu trắng, đồng thời T lấy trong người ra 01 túi nilon kích thước khoảng 3x3cm trong chứa tinh thể màu trắng đặt lên mặt bàn. Sau đó L đi ra ngoài, xuống lễ tân để lấy nước. Trong phòng 701 lúc này chỉ còn H và T. T đi vệ sinh. H đi đến trước bàn đầu giường và thấy trên mặt bàn 01 đĩa sứ, trên mặt đĩa có Ketamine và 01 thẻ nhựa, 01 ống hút. H cầm ống hút hít Ketamine vào cơ thể. H sử dụng ma túy xong thì T sử dụng ma túy như cách thức H vừa sử dụng. Sau đó, khoảng 00 giờ 55 phút ngày 17/4/2020, Công an quận Ngô Quyền vào bắt giữ H và T, đồng thời đưa L ở dưới quầy lễ tân vào phòng. Tại phòng 701, cơ quan Công an thu giữ: 01 đĩa sứ trên mặt đĩa chứa tinh thể màu trắng và 01 thẻ nhựa, 01 ống hút; thu trên mặt bàn 01 túi nilon kích thước khoảng 3x3cm trong chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon kích thước khoảng 1,5x1,5cm trong chứa 03 viên nén màu hồng; thu trong túi xách màu đen của L: 02 gói nilon mỗi gói có kích thước khoảng 2x2cm trong chứa tinh thể màu trắng; thu trong ốp điện thoại của L 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 VNĐ được gấp thành hình chữ nhật trong chứa tinh thể màu trắng; 01 loa nghe nhạc, 01 đèn led màu trắng. Sau đó cơ quan Công an dẫn giải các đối tượng cùng tang vật về trụ sở. Khi đi xuống dưới sảnh khách sạn thì gặp V và H đi lên, cơ quan Công an giữ V, H lại và thu giữ cạnh phanh tay trong xe ô tô Honda City của V 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng trong chứa tinh thể màu trắng.

Kết luận giám định số 198/KLGĐ - MT ngày 20/4/2020 của Phòng kỹ thật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

- Tinh thể màu trắng bám dính trên đĩa sứ gửi giám định là ma túy, loại Ketamine. Không đủ điều kiện xác định khối lượng tinh thể.

- Tinh thể màu trắng trong túi nilon kích thước khoảng 3x3cm (của Thành mang theo) là ma túy có khối lượng 1,62 gam, là loại Ketamine.

- 03 viên nén màu hồng sẫm (của L mang theo) là ma túy có khối lượng 1,21 gam, là loại : MDMA.

- Tinh thể màu trắng trong thu trong 02 túi nilon kích thước mỗi túi khoảng 2x2cm (của L mang theo) là ma túy có khối lượng 1,74 gam, là loại Ketamine.

- Chất tinh thể màu trắng thu trong tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng (của L mang theo) là ma túy có khối lượng 0,11 gam, là loại Ketamine.

- Chất tinh thể màu trắng thu trong tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng thu trong xe ô tô là ma túy có khối lượng 0,08 gam, là loại Ketamine.

- Nước tiểu của Đào Mạnh H, Phạm Diệu L, H Xuân V đều tìm thấy chất ma túy, loại Ketamine - Nước tiểu của Nguyễn Hữu T tìm thấy chất ma túy, loại MDMA và Ketamine.

- Nước tiểu của Phạm Danh H tìm thấy chất ma túy, loại Ketamine và Delta-9-tetrahydrocanabinol Delta-9-tetrahydrocanabinol là hoạt chất gây nghiện có trong cây Cần sa ( bút lục 67, 68).

Kết quả xác minh tại Cơ sở cai nghiện ma tuý, địa phương, gia đình và bản thân các đối tượng đã xác định các bị cáo Nguyễn Hữu T, Phạm Diệu L và các đối tượng V, H, H không phải là đối nghiện chất ma túy.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng quyết định:

Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Hữu T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Diệu L 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đng thời, tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 khởi tố vụ án hình sự Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng vì có căn cứ cho rằng có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Ngày 16/4/2021, bị cáo Nguyễn Hữu T có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 20/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKSNQ đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền.

Ngày 28/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKSNQ đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo hướng không áp dụng khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự để xét xử các bị cáo Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” mà áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với các bị cáo Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời giảm hình phạt cho hai bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Nguyễn Hữu T khai nhận: Bi cáo không có ý kiến gì đối với tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” mà Bản án sơ thẩm đã xét xử và quyết định đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo thấy mức hình phạt 08 năm 06 tháng tù đã xét xử đối với bị cáo là nặng nên bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo là người được H, V rủ đi sử dụng ma túy và H, V cũng là người đi ôtô đến đón bị cáo đi cùng sử dụng ma túy nhưng H,V lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị cáo lại bị xét xử đến 08 năm 06 tháng tù; bị cáo thấy như thế là không công bằng. Vì vậy, bị cáo đề nghị Hội đồng xem xét đến trách nhiệm hình sự của V, H và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

Bị cáo Phạm Diệu L khai nhận: Bị cáo không đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo; theo bị cáo nghĩ, bị cáo không phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” mà bị cáo chỉ phạm tội “Tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy” như Viện kiểm sát đề nghị. Lúc trên xe oto bị cáo có bảo với V “Chị có hai túi ke nhưng không được ngon lắm”, nếu T không đưa ma túy của T ra thì bị cáo cũng đưa ma túy của bị cáo cho mọi người sử dụng; bị cáo có bảo H chở bị cáo về nhà lấy loa, đèn đến Phòng 701 để nghe nhạc; khi đến khách sạn bị cáo xuống lấy nước với mục đích vừa để uống và sử dụng ma túy; bị cáo để 03 viên nén màu hồng trên bàn mục đích để cho mọi người cùng sử dụng. Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKSNQ ngày 20/4/2021 và Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKSNQ ngày 28/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, không có thay đổi bổ sung.

Đại diện Viện kiểm sát khẳng định bản thân 05 đối tượng đều thống nhất ý chí ngay từ đầu về việc sử dụng ma túy, có vai trò nhất định trong việc chuẩn bị các điều kiện để cùng nhau đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu của chính họ; giữa các đối tượng không có sự phân công, chỉ đạo điều hành cụ thể để nhằm đưa ma túy vào cơ thể người khác, thể hiện: H khởi xướng, thuê phòng khách sạn và rủ thêm người để cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Bản thân H trực tiếp rủ T tham gia; tại Phòng 701, H là người tán ma túy để bản thân và H sử dụng.V cùng H khởi xướng việc sử dụng trái phép chất ma túy. V sử dụng xe của gia đình rủ L, H và đồng thời đặt Phòng 701 làm địa điểm cùng sử dụng ma túy. Trên xe ô tô, V cung cấp tờ tiền 20.000 đồng và cuộn thành ống hút để sử dụng ma túy. T và L là người cung cấp ma túy cho cả nhóm sử dụng. Tuy cả nhóm chưa sử dụng đến số ma tuy do L cung cấp nhưng L đã cung cấp bật lửa ga cho H để H tán nhỏ ma túy trên xe ô tô; L cung cấp loa, đèn phục vụ cho việc sử dụng ma túy. Số ma túy thu giữ của L, L vừa sử dụng cho bản thân vừa để cho cả nhóm sử dụng. H là người cung cấp tờ tiền 5.000 đồng để đựng ma túy và trực tiếp tán ma túy trên xe ô tô để bản thân sử dụng và đưa cho V sử dụng. Hành vi cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy của các đối tượng T, H, H, V, L không đủ yếu tố cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Điêu 255 Bộ luật HÌnh sự. Vì vậy, Viện kiểm sát sơ thẩm truy tố bị cáo Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ.

Tuy nhiên, Tòa án đã vận dụng Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân Tối cao để nhận định đánh giá hành vi của Phạm Diệu L và Phạm Hữu T và xét xử về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là không có căn cứ. Vì căn cứ Điều 4 Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi bổ sung năm 2020 của Quốc Hội thì Giải đáp số 89 không phải là văn bản quy phạm pháp luật, không phải Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao nên không thể áp dụng để làm căn cứ đánh giá xét xử đối với các bị cáo.

Vì vậy,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị: Hủy Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự và đề nghị sửa Bản án sơ thẩm, không áp dụng khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo Phạm Diệu L, Nguyễn Hữu T về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với bị cáo Phạm Diệu L, Nguyễn Hữu T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đồng thời giảm hình phạt cho hai bị cáo. Ngoài ra, đối với 03 điện thoại đã thu giữ của Đào Mạnh H, H Xuân V, Lê Danh H đề nghị tuyên trả lại cho các chủ sở hữu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

[2] Đào Mạnh H là người khởi xướng, thuê phòng khách sạn (dự định trả tiền thuê phòng) và rủ thêm người để cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Bản thân H trực tiếp rủ T tham gia, H lái xe đón, chở mọi người đi đến địa điểm sử dụng ma túy.Tại Phòng 701, H là người dùng thẻ miết ketamine để bản thân và T sử dụng. H Xuân V cùng H khởi xướng việc sử dụng trái phép chất ma túy. V sử dụng xe của gia đình rủ Phạm Diệu L, Lê Danh H và đồng thời đặt Phòng 701 làm địa điểm cùng sử dụng ma túy. Trên xe ô tô: Nguyễn Hữu T cung cấp ma túy, H đánh ke và bỏ ra tờ tiền 5000 đồng để đựng ma túy, H trực tiếp miết ma túy, V cung cấp tờ tiền 20.000 đồng và cuộn thành ống hút để H, V sử dụng ma túy. Khi đến khách sạn H là người trực tiếp vào thuê phòng, trực tiếp lái xe đón V quay lại Phòng 701 khách sạn H Gia để cả nhóm cùng sử dụng chất ma túy. T và L là người cung cấp ma túy cho cả nhóm sử dụng. Tuy cả nhóm chưa sử dụng đến số ma tuy do L cung cấp nhưng L đã cung cấp bật lửa ga cho H để H tán nhỏ ma túy trên xe ô tô. L cung cấp loa, đèn phục vụ cho việc sử dụng ma túy. Số ma túy thu giữ của L, L vừa sử dụng cho bản thân vừa để cho cả nhóm sử dụng. Các đối tượng Phạm Diệu L, Nguyễn Hữu T, Đào Mạnh H, H Xuân V, Lê Danh H đã thống nhất ý chí thực hiện các hành vi bố trí, thuê địa điểm, sắp xếp, đưa đón con người, cung cấp ma túy, chuẩn bị phương tiện, dụng cụ để cùng nhau thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy từ khi đi đón nhau cho đến khi bị bắt tại Phòng 701 khách sạn H Gia. Vì vậy, Bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Hữu T và Phạm Diệu L về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

[3] Ngoài ra, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra tại Phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 17/4/2020.

[4] Xét các Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKSNQ ngày 20/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền và Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKSNQ ngày 28/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo hướng không áp dụng khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự để xét xử các bị cáo Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với các bị cáo Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đồng thời giảm hình phạt cho hai bị cáo.

[5] Tại các quyết định kháng nghị của cấp sơ thẩm và tại phiên tòa, Viện kiểm sát đều thống nhất thể hiện nôi dung: Các đối tượng Thành, L, H, V, H đều có hành vi chuẩn bị cho việc đưa ma túy trái phép vào cơ thể nhau, không có đối tượng thụ hưởng khác nên không phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Đồng thời, đưa ra quan điểm: Tòa án đã vận dụng Giải đáp số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân Tối cao để nhận định đánh giá hành vi của Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T xét xử theo Điều 255 Bộ luật Hình sự là không đúng vì Giải đáp số 89 không phải là văn bản quy phạm pháp luật, không phải Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Đối với các nội dung kháng nghị này Hội đồng xét xử phúc thẩm có quan điểm như sau:

[6]Tại khoản 1 Điều 17 BLHS 2015 quy định “ Đồng phạm là trường hợp có 02 người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm”. Đối chiếu giữa quy định về “đồng phạm” với các hành vi mà các đối tượng Đào Mạnh H, H Xuân V, Lê Danh H, Phạm Diệu L và Nguyễn Hữu T đã thực hiện theo nội dung vụ án thì thấy cả 5 đối tượng nêu trên đều không phải là đối tượng nghiện ma túy nhưng đã thống nhất ý chí cùng thực hiện việc đưa ma túy vào cơ thể người khác và đưa ma túy vào chính cơ thể mình,cụ thể:

[7] Do muốn đưa ma túy vào cơ thể người khác nên H gọi điện rủ V, Thành còn V gọi điện rủ L, H đi nghe nhạc (tức là đi sử dụng ma túy); tiếp nhận ý chí của H, V đã đồng ý và lấy xe ô tô đi đón H, L. Khi H gọi điện rủ T đi sử dụng ma túy thì T đồng ý ngay và mang sẵn ma túy trong người để H đến đón. Tương tự như vậy, ngay khi nhận được điện thoại của V thì L, H đã đồng ý ngay và L đã có sẵn ma túy trong người để gặp V. Và ngay khi các đối tượng trên gặp nhau ở trên xe, V đã hỏi L có ma túy (ke) không thì L, T đã đưa ngay gói ma túy ra với mục đích để mọi người cùng sử dụng. V không chỉ muốn đưa ma túy vào cơ thể mình mà còn muốn đưa ma túy vào cơ thể người khác nên đã lầy tờ tiền 20.000 đồng cuộn thành ống hút rồi đưa cho H. H không chỉ sử dụng ma túy mà cũng muốn đưa ma túy vào cơ thể người khác nên sau khi miết ketamine xong cũng đã đưa ketamine cùng các công cụ mình chuẩn bị (ống hút) cho người khác để sử dụng. Cũng chính vì muốn được sử dụng ma túy và đưa ma túy vào cơ thể người khác nên các đối tượng đã hết sức tích cực, khẩn trương thuê phòng, chuẩn bị loa, đèn; thậm chí cả khi V kêu mệt đã về nghỉ các đối tượng đã thống nhất lấy xe về đón V quay trở lại để sử dụng ma túy (cụ thể đưa ma túy vào cơ thể V), đưa ma túy vào cơ thể nhau.

[8] Như vậy, các bị cáo Nguyễn Hữu T, Phạm Diệu L và các đối tượng H Xuân V, Lê Danh H, Đào Mạnh H đều có vị trí, vai trò nhất định đối với hành vi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của người khác, các đối tượng đều trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, trực tiếp thực hiện hành vi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của người khác và của chính mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu T, Phạm Diệu L nhưng không khởi tố, truy tố các đối tượng H Xuân V, Lê Danh H, Đào Mạnh H là bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hội đồng xét xử sơ thẩm đã trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa 02 lần để điều tra bổ sung làm rõ hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của Phạm Diệu L, Nguyễn Hữu T, Đào Mạnh H, H Xuân V, Phạm Danh H theo quy định tại Điều 255 BLHS nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Vì vậy, căn cứ khoản 3 Điều 298 BLHS, HĐXX đã xét xử các bị cáo Nguyễn Hữu T, Phạm Diệu L với tội danh nặng hơn (Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy) quy định tại Điều 255 BLHS.Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 khởi tố vụ án hình sự “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” xảy ra tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng vì có căn cứ cho rằng có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can là có căn cứ.

[9] Tại Mục I Phần I của Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân Tối Cao về việc Thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử đã hướng dẫn: “…Còn tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, điểm, phương tiện, dụng cụ.. để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Trong tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng có đồng phạm nhưng đồng phạm ở đây được hiểu là thực hiện theo sự chỉ huy, phân công điều hành (không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, không bắt buộc phải có sự phân công, chỉ đạo, điều hành, chặt chẽ trong các đồng phạm”.

[10] Tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án và Bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử là một trong những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân đã được quy định cụ thể trong Luật (Khoản 8 Điều 2; Khoản 3 Điều 20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành rất nhiều công văn hướng dẫn áp dụng pháp luật. Việc ban hành các Công văn giải đáp vướng mắc của Tòa án nhân dân Tối cao là hết sức quan trọng, cần thiết và không thể thiếu để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân Tối Cao được ra đời dựa trên cơ sở phiên họp trực tuyến ngày 18/5/2020 để giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính và dân sự; chủ thể giải đáp là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Sau khi ban hành, Công văn đã được gửi đến các Tòa án, các Thẩm phán, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Ban Nội chính Trung ương, Ủy ban mặt trận Tổ Quốc Việt Nam để thực hiện, giám sát. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm khẳng định Tòa án đã vận dung Giải đáp số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân Tối Cao để làm căn cứ đánh giá, xét xử đối với các bị cáo Nguyễn Hữu T và Phạm Diệu L là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận các đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Hữu T:

[11] Bị cáo Nguyễn Hữu T là người đã có hành vi cung cấp ma túy cho mọi người có mặt trên xe ô tô sử dụng, nhưng lúc đó chỉ có V và H sử dụng. Và Thành cũng là người cung cấp ma túy tại Phòng 701 khách sạn H Gia để mọi người sử dụng. Tuy nhiên, khi mọi người chưa có mặt đông đủ thì H đã sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết định khung “đối với 02 người trở lên” đối với bị cáo T quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật. Tuy nhiên, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội liên tiếp nhau về mặt thời gian, không bị gián đoạn (từ 17h ngày 16/4/2020 liên tục đến 00h55’ ngày 17/4/2020; từ khi đón nhau, đi trên xe đến nhà nghỉ). Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là không phù hợp. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy cần sửa bản án sơ thẩm về vấn đề này.

[12] Mặc dù không áp dụng tình tiết đinh khung tại điểm a (phạm tội hai lần trở lên) khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hữu T nhưng xét bị cáo có nhân thân xấu (04 tiền án đã được xóa); bị cáo còn có 01 tiền án, 01 tiền sự chưa được xóa nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng; tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào khác ngoài tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đã được áp dụng nên mức hình phạt 08 năm 06 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[13] Với các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng Hình sự không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Hữu T, Phạm Diệu L. Giữ nguyên Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự sửa một phần Bản án sơ thẩm về việc áp dụng tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo Nguyễn Hữu T.

[14] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[15] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Nguyễn Hữu T. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKSNQ ngày 20/4/2021 của Viện kiếm sát nhân dân quận Ngô Quyền kháng nghị hủy Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Không chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKSNQ ngày 28/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 14 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền về phần áp dụng tội danh và hình phạt đối với bị cáo Phạm Diệu L, Nguyễn Hữu T.

Giữ nguyên Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền khởi tố vụ án hình sự Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 17 tháng 4 năm 2020. Sửa một phần Bản án số 55/2021/HS-ST ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền về phần áp dụng tình tiết tăng nặng định khung đối với bị cáo Nguyễn Hữu T.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Hữu T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Tạm giam bị cáo Nguyễn Hữu T 45 (Bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Diệu L 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Tạm giam bị cáo Phạm Diệu L 45(Bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án số 55/2021/HS-ST ngày 14/4/2021 và Quyết định khởi tố vụ án số 01/2021/HS-QĐ ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

535
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-PT

Số hiệu:63/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;