Bản án 55/2022/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THUỴ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại phòng xét xử của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo :

Họ và tên: Trần Minh Kh, sinh ngày 08/9/1997; Nơi cư trú: thôn T, xã HD, huyện TT, tỉnh TB. Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Trần Minh Kh, sinh năm 1966 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1967; Cư trú tại: thôn T, xã HD, huyện TT, Thái Bình. Vợ: Trần Thị L, sinh năm 1997 và 01 con sinh năm 2020; Cư trú tại: thôn T, xã HD, huyện TT, Thái Bình; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/3/2022 đến ngày 04/3/2022 chuyển tạm giam cho đến nay – Có mặt

* Người làm chứng:

- Anh Phạm Việt Th1, sinh năm 1981 – Vắng mặt

Địa chỉ: SN 250, tổ dân phố số X, thị trấn D Đ, Thái Thụy, Thái Bình;

- Anh Đào Mạnh Th2, sinh năm 1993 – Vắng mặt

Địa chỉ: thôn TX, xã T, huyện KĐ, tỉnh Hưng Yên;

- Chị Vi Thị Đ, sinh năm 1999 – Vắng mặt

Địa chỉ: tiểu khu 8, xã CS, huyện MC, tỉnh Sơn La

- Anh Trần Đình S, sinh năm 1990 – Vắng mặt

Địa chỉ: thôn BC, xã T, huyện TT, Thái Bình;

- Chị Cháng Thị Th3, sinh năm 2002 – Vắng mặt

Địa chỉ: thôn CĐ, xã CR, huyện XM, tỉnh Hà Giang;

- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1955 – Vắng mặt

Địa chỉ: Số nhà 250, tổ dân phố số Y, D Đ, TT, Thái Bình

- Lê Văn D, sinh năm 1993 – Vắng mặt

Địa chỉ: thôn BA, xã TX, huyện Thái Thụy;

- Đoàn Duy C, sinh năm 1997 – Vắng mặt

Địa chỉ: thôn T, xã HD, huyện TT, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 19/10/2021, bị cáo Trần Minh Kh đi đến khu công nghiệp An Dương, thành phố Hải Phòng mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ 05 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy Ketamine với giá 5.000.000 đồng, mục đích để sử dụng trong tiệc mừng sinh nhật cho Hà Thị Lan A, sinh năm 1988; Trú tại thôn NS, xã NT, huyện SL, tỉnh Vĩnh Phúc vào tối ngày 19/10/2021. Đến 19 giờ cùng ngày, bị cáo cùng Đoàn Duy T, sinh năm 1993 và Đoàn Duy C, sinh năm 1997 đều cư trú tại: thôn T, xã HD, huyện TT, tỉnh Thái Bình đến quán Mộc Lâm ở xã Thái Xuyên, huyện TT để ăn uống mừng sinh nhật Lan A. Tại đây có nhiều người là bạn của Lan A. Đến khoảng 20 giờ 30 cùng ngày, Lan A nhờ Phạm Hồng Đ, sinh năm 1997; nơi cư trú: thôn ĐX, xã T, huyện TT, tỉnh Thái Bình (là quản lý quán Karaoke Bảo Vinh có địa chỉ tại Tổ dân phố Ngoại Trình, thị trấn Diêm Điền) về mở phòng hát, sau đó nhóm của Lan A về quán Karaoke Bảo Vinh. Đến khoảng 22 giờ 30 một số người về trước trong đó có Đoàn Duy T; Số người còn lại trong phòng Vip I gồm: Hà Thị Lan A; Trần Minh Kh; Phạm Hồng Đ; Lê Văn D; Phạm Việt Th1; Mạc Thị Th, Hà Thị T, Đào Mạnh Th2, Vì Thị Đ và Đoàn Duy C; Trần Đình S, sinh năm 1990, trú tại thôn BC, xã TT, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tiếp tục hát và sử dụng ma túy là thuốc lắc và Ketamine. Quá trình sử dụng ma túy các đối tượng dùng thuốc lắc pha uống lẫn với nước cocacola và dùng 01 (một) ống hút được quấn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 20.000đồng (Hai mươi nghìn đồng) được cố định bằng ba vỏ đầu lọc thuốc lá màu vàng để hít Ketamine qua mũi, việc sử dụng ma túy diễn ra như sau: Bị cáo Trần Minh Kh lấy ra một viên ma túy (thuốc lắc) màu xanh bẻ làm đôi đưa cho Lan A một phần cùng với một lon cocacola và nói “Bạn chơi đi”, phần còn lại Kh đưa cho Đào Mạnh Th2, sau khi nhận thuốc lắc thì Lan A và Th2 sử dụng nước cocacola để uống cùng. Bị cáo đưa đưa cho C một nửa viên thuốc lắc, nửa viên còn lại bị cáo sử dụng. Một lúc sau, bị cáo Trần Minh Kh cầm vào phòng một chiếc đĩa sứ hình tròn, màu trắng và lấy từ trong túi đeo trên người ra một túi ma túy Ketamine đổ lên đĩa, dùng thẻ ATM của mình để miết và kẻ Ketamine thành nhiều đường rồi bê đĩa Ketamine mời Lan A, Th1, S, Th2, C cùng sử dụng hết số ma túy đó (S không sử dụng). Khoảng 15 phút sau, sau khi được bị cáo Kh nhờ thì Lan A cầm đĩa ra bếp ga của quán đốt nóng đĩa rồi cầm vào phòng, bị cáo nhận đĩa rồi tiếp tục lấy một túi Ketamine từ trong túi đeo trên người đổ ra và dùng thẻ ATM miết và kẻ Ketamine thành nhiều đường mời Lan A, D, Th2, Th2, T, Th4 sử dụng, sau đó bị cáo đưa cốc nước cocacola có pha sẵn thuốc lắc cho D sử dụng. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20/10/2021 Phạm Hồng Đ dùng xe mô tô chở C đến quán Karaoke Dream thuộc xã TX, huyện TT và đón Cháng Thị Th3 về quán Karaoke Bảo Vinh để phục vụ khách hát trong phòng Vip I. Khi Đ đang đứng tại quầy lễ tân thì bị cáo từ phòng Vip I đi ra đưa cho Đ một nửa viên thuốc lắc mời sử dụng, sau đó Lan A cũng đi ra đưa cho Đ một mảnh viên thuốc lắc nhưng Đ không nhận, Lan A lại đưa cho bị cáo Kh nhưng bị cáo không nhận và bị cáo còn đưa thêm cho Lan A một mảnh của viên thuốc lắc của bị cáo, Lan A nhận và gói số thuốc lắc vào trong một mảnh giấy rồi cùng Đ, bị cáo Kh đi vào phòng Vip I tiếp tục sử dụng ma túy. Khi vào Phòng Vip I, Đ thấy Th3 đang đứng cạnh cửa, Đ bẻ nửa viên thuốc lắc làm hai phần rồi đưa cho Th3 sử dụng, còn Lan A đưa cho Đông số thuốc lắc được gói trong mảnh giấy để Đ sử dụng sau đó bê đĩa Ketamine trên bàn mang đến mời Đ, T, Đ sử dụng. Lúc sau thì Th1 đi ra ngoài cùng vợ là Tr đi về, sau đó S cũng đi về, những người còn lại tiếp tục mở nhạc to để nghe. Đến 02 giờ 20, tổ công tác của Công an huyện TT phối hợp với Công an thị trấn Diêm Điền tiến hành kiểm tra quán Karaoke Bảo Vinh thì Hà Thị Lan A, Trần Minh Kh, Phạm Hồng Đ lợi dụng sơ hở đã rời khỏi quán, còn lại Mạc Thị Th4, Hà Thị T, Vì Thị Đ, Cháng Thị Th3, Nguyễn Văn T1, Lê Văn D, Đào Mạnh Th2 vẫn còn ở lại quán, tổ công tác tiến hành kiểm tra phòng Vip I đã phát hiện và thu giữ trên mặt bàn có: 01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn trên mặt đĩa có bám dính chất bột màu trắng (Mẫu số A1), 01 (một) ống hút được quấn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) được cố định bằng ba vỏ đầu lọc thuốc lá màu vàng, 01 (một) thẻ ATM mang tên TRAN MINH KHUE, 02 (hai) túi nilon trong suốt có gờ cài, 02 bật lửa ga màu đỏ, 02 bật lửa ga màu tím. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc, niêm phong vật chứng đưa toàn bộ số người có mặt về trụ sở Công an huyện TT để tiến hành điều tra làm rõ. Ngày 28/10/2021 Phạm Hồng Đ bị khởi tố và bắt tạm giam, cùng ngày tiến hành khám xét nhưng không thu giữ gì; Hà Thị Lan A trốn khỏi địa phương đến ngày 25/11/2021 ra trình diện tại Công an xã NT, huyện SL, tỉnh Vĩnh Phúc, ngày 26/11/2021 bị khởi tố, cùng ngày tiến hành khám xét chỗ ở không thu giữ gì; Trần Minh Kh bỏ trốn khỏi địa phương đến ngày 01/3/2022 ra đầu thú.

- Bản kết luận giám định số 412/KLGĐMT-PC09 ngày 22/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột màu trắng bám dính trên bề mặt đĩa sứ trong bao niêm phong mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, không xác định được khối lượng do lượng mẫu bám dính quá ít”. Ketamine STT: 35, Danh mục III, Nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ;

- Bản kết luận giám định số 413/KLGĐMT-PC09 ngày 25/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận về mẫu nước tiểu thu của Đào Mạnh Th2 (Mẫu số M1), Vì Thị Đ (Mẫu số M2), Hà Thị T (Mẫu số M3), Cháng Thị Th3 (Mẫu số M4), Mạc Thị Th4 (Mẫu số M5), Lê Văn D (Mẫu số M6), Nguyễn Văn T1 (Mẫu số M7), Phạm Việt Th1 (Mẫu số M8), Phạm Hồng Đoàn (Mẫu số M9), Bùi Thu Tr (Mẫu số M10): “Mẫu số M1, M2, M3, M4, M5, M6, M8, M9 gửi giám định đều tìm thấy sản phẩm chuyển hóa của hai loại ma túy là Ketamine và MDMA. Mẫu số M7, M10 gửi giám định đều không tìm thấy sản phẩm chuyển hóa của ma túy. Ketamine STT: 35, Danh mục III, nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ. MDMA STT: 27, Danh mục I, nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ.

- Ngày 21/10/2021, Bệnh viện tâm thần tỉnh Thái Bình có phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy, xác định: Các đối tượng Lê Văn D, Phạm Hồng Đ, Phạm Việt Th1, Nguyễn Văn T, Bùi Thu Tr, Hà Thị T, Mạc Thị Th4, Đào Mạnh Th2, Vì Thị Đ, Cháng Thị Th3: Lâm sàng không đáp ứng tiêu huẩn nghiện.

Cáo trạng số 51/CT-VKSTT ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố Trần Minh Kh phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội, giữ nguyên cáo trạng, đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 điều 255; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Minh Kh từ 8 năm đến 8 năm 6 tháng tù giam. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị tuyên về án phí đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Minh Kh khai nhận diễn biến hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã truy tố, bị cáo nhận tội, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng: Bị cáo đều nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

QUYẾT ĐỊNH

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo trình bày: Với mục đích cho những người đến dự mừng sinh nhật cho Hà Thị Lan A sử dụng ma túy nên bị cáo chủ động chuẩn bị ma túy. Bị cáo đã đến Khu công nghiệp An Dương, thành phố Hải Phòng để mua 5 viên MDMA (còn gọi là thuốc lắc) và 02 chỉ Ketamin để sử dụng trong tiệc sinh nhật. Trong tiệc sinh nhật của Lan Anh có một số người là bạn bị cáo, một số người là bạn của Lan Anh. Bị cáo cũng là người chuẩn bị dụng cụ sử dụng ma tuý gồm đĩa, tờ tiền polyme mệnh giá 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) được cố định bằng ba vỏ đầu lọc thuốc lá màu vàng, 01 (một) thẻ ATM để sử dụng Ketamin ; Trực tiếp đưa ma tuý MDMA đưa cho Th2, Lan A, Đ, C sử dụng qua đường uống; dùng thẻ ATM của mình để miết và kẻ Ketamine thành nhiều đường giúp cho việc sử dụng được Ketamin rồi bê mời Lan A, Th1, S, Th2, D, T, Th4 hút Ketamin qua đường mũi; Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã chuẩn bị ma túy, phương tiện sử dụng đưa ma túy trái phép vào cơ thể nhiều người bằng hình thức cho hít Ketamin qua mũi, cho uống thuốc lắc MDMA cùng với Côcacola. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các kết luận giám định, biên bản phạm tội quả tang, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Bị cáo tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho từ 2 người trở lên đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng đã truy tố các bị cáo với tội danh, điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với 02 người trở lên;

c) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi;

d) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;

đ) Đối với người đang cai nghiện;

e) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

g) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây chết người;

b) Gây tổn hại cho sức khoẻ cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên;

d) Đối với người dưới 13 tuổi.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

b) Làm chết 02 người trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [3]. Trong vụ án này các bị cáo Phạm Hồng Đ và Hà Thị Lan A đã bị kết án về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo bản án số 26/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Phạm Hồng Đ bị tuyên phạt 7 năm 9 tháng tù giam; Hà Thị Lan A bị tuyên phạt 7 năm 9 tháng tù giam. Các bị cáo không bàn bạc trước, cùng tiếp nhận ý chí và cùng nhau thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo Trần Minh Kh là người khởi xướng, là người cung cấp ma tuý và chuẩn bị công cụ sử dụng ma túy; trực tiếp thực hiện mài, kẻ ma tuý để đưa được ma tuý vào người sử dụng; bị cáo Kh giữ vai trò chính trong toàn vụ. Tại bản án số 26/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình cũng đã nhận định: Lan A tích cực giúp bị cáo Kh công cụ để sử dụng ma tuý, trực tiếp mời ma tuý cho nhiều người vai trò thứ hai; Phạm Hồng Đ cho phép sử dụng địa điểm để các đối tượng sử dụng ma tuý và trực tiếp mời Th3 sử dụng ma tuý giữ vai trò thứ ba.

[4]. Bị cáo Trần Minh Kh không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Bị cáo phạm vào tội rất nghiêm trọng, hành vi tổ chức sử dụng ma túy của bị cáo có tính chất rất nguy hiểm cho xã hội cần áp dụng Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt tù với mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo. Bị cáo có vai trò chính thứ nhất trong toàn vụ nên về phần hình phạt phải cao hơn hình phạt đã tuyên đối với Phạm Hồng Đ và Hà Thị Lan A. Bị cáo lao động tự do, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng:

[6.1] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT đã trả lại các tài sản gồm: Trả cho Cháng Thị Th3 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng, vỏ màu đen, có số IMEI 355372088985191, mặt sau có chữ và số ID: BCG- E3092A IC: 579C-E3092A; Trả lại cho Đào Mạnh Th2 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG đã qua sử dụng, vỏ màu xanh, kính mặt trước và mặt sau bị vỡ, rạn nứt, mặt sau có chữ và số SM-G950N 1696895 IMEI: 356356/08/836675/8 SKT; Trả lại cho Phạm Hồng Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng, vỏ màu đen, mặt trước bị nứt vỡ, có số IMEI 356563087938509, mặt sau có chữ và số ID: BCG-E3085A IC: 579C-E3085A; Trả lại cho Lê Văn D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng, vỏ màu vàng trắng, mặt sau có chữ và số IMEI: 352029075122476; Trả lại cho Phạm Việt Th1 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng, vỏ màu vàng có IMEI1 357283090631871, IMEI2 357283090689440; Trả lại cho Nguyễn Văn T1 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng, vỏ màu vàng đen có IMEI 353369284808765 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG đã qua sử dụng, vỏ màu xanh đen, mặt sau bị rạn vỡ có số IMEI1 354652103268298, IMEI2 354653103268296; Trả lại cho Hà Thị Lan A 01 (một) túi xách giả da màu trắng, đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng, vỏ màu hồng, có số IMEI 353293074873658, mặt sau có chữ và số: Model A1634 FCC: BCG- E2944A IC: 579C-E2944A; 01 (một) thẻ Căn cước công dân số 026198002698 mang tên Hà Thị Lan A; Còn quản lý 01 điện thoại Iphone vỏ màu xám, mặt sau có dòng chữ Model A1687FCC ID:BCG-E2944A; IC: 579C-E2944A đã qua sử dụng thu giữ của Mạc Thị Th4; 01 điện thoại Iphone vỏ màu vàng trắng, mặt sau có số ID: BCG-E3092A; IC: 5796-E3092A đã qua sử dụng thu giữ của Hà Thị T; 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn trên mặt đĩa có bám dính chất bột màu trắng được niêm phong trong phong bì số 412/KLGĐMT; 03 vỏ đầu lọc thuốc lá màu vàng (dùng để cố định ống hút bằng tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng), 01 thẻ ATM mang tên TRAN MINH KH, 04 bật lửa ga bằng nhựa trong đó có 02 chiếc màu đỏ, 02 chiếc màu tím là công cụ, phương tiện phạm tội; 02 túi nilon trong suốt có gờ cài; Tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng (cuộn làm ống hút)

[6.2] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ vật chứng đã thu giữ nêu trên đã được xử lý tại bản án số 26/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

[7]. Các vấn đề khác của vụ án:

[7.1] Trong quá trình điều tra Phạm Việt Th1 và Trần Đình S có khai Đoàn Duy C có mời sử dụng thuốc lắc. Đã tiến hành đối chất nhưng C không thừa nhận, không đủ căn cứ để xử lý hành vi của C.

[7.2] Phạm Việt Th1, Lê Văn D, Đào Mạnh Th2, Hà Thị T, Mạc Thị Th4, Vì Thị Đ, Cháng Thị Th3 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Phòng Vip I quán Karaoke Bảo Vinh vào các ngày 19, 20/10/2021, Công an huyện TT đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

[7.3] Bị cáo khai mua ma túy ở khu vực khu công nghiệp An Dương, thành phố Hải Phòng của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng nên không có căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ.

[8]. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm b khoản 2 điều 255; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; các Điều 135, Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Minh Kh phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

2. Hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Trần Minh Kh 8 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam, giữ ngày 01/3/2022;

3. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý theo bản án số 26/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Bị cáo Trần Minh Kh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2022/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;